Từ Thế chiến thứ 2 đến thập kỷ 90, nỗ lực của lực lượng vũ trang các cường quốc trong lĩnh vực lực đẩy phản trọng lực (nói cách bình dân, là "khoa học đĩa bay") đã tập trung vào 2 lĩnh vực khoa học: Điện-trọng-lực học (Electrogravitics) và Điện-động học Năng lượng Mới (Electrokinetics). Nay, Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam xin giới thiệu vài nét cơ bản về công nghệ đột phá này - một công nghệ hứa hẹn một thời đại mới trong ngành hàng không dân dụng với những tàu bay không cánh, không cần đường lăn, và bay được với vận tốc hàng chục nghìn km/giờ.
Khoa học đĩa bay - ĐIện động học Năng lượng Mới (Electrokinetics)
1. Năng lượng Mới cho một
nước Việt Nam siêu hiện đại
Phần 3: Khoa học Năng lượng Mới
Điện-động học NLM (Electrokinetics)
6/2014 Vietnam New Energy Group
2. Để thảo luận và đặt câu hỏi
về bài thuyết trình này, xin mời bạn
ghé thăm website và diễn đàn của
Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam:
www.nangluongmoisaigon.org
3. Hoặc lên trang Facebook của
“Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam”
4. Xin chúc mừng!
Vừa rồi, chúng ta đã tìm hiểu về 6 chủ đề khoa học
đầu tiên trong bộ giáo trình Năng lượng Mới là:
1. Hệ đa-vũ-trụ 11 chiều
2. Hạ lượng tử động lực học
3. Bọt lượng tử
4. Lượng tử điện-động-lực học
5. Hiệu ứng Casimir
6. Điện-trọng-lực học
5. Hôm nay, chúng ta bắt đầu tìm hiểu 6
chủ đề khoa học Năng lượng Mới
còn lại.
Chúng tôi xin nhắc bạn rằng 12 chủ
đề khoa học NLM chúng tôi đang
giới thiệu ở đây không phải là hết
tất cả những gì cần biết để thiết kế
và chế tạo thành công các ứng dụng
NLM.
6. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng một
số thông tin ở đây sẽ thúc đẩy bạn tìm
hiểu sâu hơn về Năng lượng Mới – tức
là nguồn năng lượng vô tận từ
chân không lượng tử (Năng lượng
Điểm Không hay ZPE)
7. Lĩnh vực khoa học thứ 7 của chúng ta là điện-
động học dưới mắt khoa học Năng lượng Mới
(electrokinetics)
8. Để hình dung được tốt hơn lực đẩy điện-
động học (electrokinetic propulsion) là gì,
chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem buổi
trình diễn 2 vật thể bay từ lĩnh vực này:
https://www.youtube.com/watch?v=490XJk053TY
9. Nhà khoa học Năng lượng Mới, Ts. Thomas Valone,
từng than phiền rằng tình hình công nghệ hàng không
dân dụng ngày nay hết sức buồn và xấu hổ vì, về
cơ bản, các chiếc may bay của ta chỉ là những
phiên bản cập nhật lại công nghệ ban đầu của
2 anh em Wright cách đây hơn 1 thế kỷ.
10. Trong ngành hàng không dân dụng,
chưa có bước phát triển gì
thật sự là đột phá
11. Điều này đáng buồn vì, thực tế đã có
những bước đột phá về nghiên cứu lực
đẩy cho tàu bay, nhưng công nghệ tiên
tiến này đang bị sử dụng độc quyền
trong các dự án quân sự tối mật.
Giai cấp công nhân chúng ta chưa
được thưởng thức nó hàng ngày.
12. May mắn thay, gần đây đã có một số
nhà khoa học dũng cảm từng làm việc
trong những “dự án đen” đó của quân
đội hiện đang tiết lộ nhiều bí mật về
công nghệ phản trọng lực dựa trên
khoa học electrogravitics và
electrokinetics.
13. Những thông tin khoa
học và kỹ thuật này đang
tạo cơ hội lớn cho các
nước từng bị các cường
quốc bắt nạt trong thế kỷ
XX, tự phát triển công
nghệ phản trọng lực tiên
tiến cho nước mình.
14. Trong chủ đề điện-trọng-
lực học, chúng ta vừa
thấy rằng T. Townsend
Brown là một nhà phát
minh tiền phong trong
công nghệ phản trọng lực
để tạo lực đẩy cho tàu
bay. Ông Brown cũng rất
quan trọng trong lĩnh vực
điện-động học
electrokinetics.
15. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ tìm hiểu
dưới đây, lĩnh vực điện-động học
(electrokinetics) là khác với điện-
trọng-lực học (electrogravitics) ở chỗ,
vấn đề khối lượng và trọng lực
không được nêu lên nhiều.
16. Tập đoàn Honda và Quân đội Hoa kỳ đã
đầu tư rất nhiều để nghiên cứu về
electrokinetics… một điều ngụ ý rằng đây là
một lĩnh vực khoa học hữu ích.
17. Theo Ts. Oleg
Jefimenko, trường
điện-động
(electrokinetic field) là
“cái lực kéo do những
hạt electron gây nên
khi chúng tác động lên
các điện tích xung
quanh”
18. Jefimenko đã viết 2 phương trình mô tả
mối quan hệ giữa trường điện động (Ek)
và các phương trình Maxwell như sau:
Thomas F. Valone, “Progress in Electrogravitics and Electrokinetics
for Aviation and Space Travel”,
http://www.integrityresearchinstitute.org/pdf/ElectrograviticsElectrokineticsValone.pdf
19. Theo Ts. Thomas Valone (Cơ quan cấp bằng
sáng chế Hoa kỳ), một hệ quả của
phương trình đầu tiên là:
Những sự thay đổi trong dòng điện (trong 1
hệ thống electrokinetic) càng nhanh, thì
lực đẩy nó tạo nên sẽ càng lớn.
20. Theo Jefimenko, trường điện-động lực
(electrokinetic field) có thể xuất hiện
tại bất cứ điểm nào trong không gian
và nó có thể xuất hiện như một “lực
thuần túy” (pure force) khi nó tác
động lên các điện tích tự do.
Điều này xảy ra khi mật độ dòng điện
trong một tụ điện thay đổi
rất, rất nhanh.
Thomas F. Valone, “Progress in Electrogravitics and Electrokinetics for Aviation and Space Travel”,
http://www.integrityresearchinstitute.org/pdf/ElectrograviticsElectrokineticsValone.pdf, trang 5.
21. Như chúng ta đã đề cập trong chủ đề Lượng
tử điện động lực học, một nguyên lý cơ bản
trong khoa học Năng lượng Mới là:
Khi ta truyền xung điện vào trường Điểm
Không (vốn rất hỗn loạn), năng lượng
chân không sẽ gắn kết và tạo các trật tự
hình học. Nói cách khác, mức entropy của
Trường Điểm Không trong một không gian
cục bộ sẽ được giảm đáng kể.
22. Theo Ts. Moray King, khi điều kiện trong Trường Điểm
Không đã đi từ hỗn loạn sang trật tự, thì lúc đó ta có thể
trích xuất năng lượng để phát điện, tạo lực đẩy, v.v…
Hãy xem video dưới đây để biết thêm về khả năng trích
xuất năng lượng từ chân không lượng tử (Trường Điểm 0):
http://youtu.be/cwrR-2yZ82g
23. Ở đây, Jefimenko và Valone đang nói
rằng tần số các xung điện phải rất, rất
nhanh để trích xuất năng lượng chân
không một cách hiệu quả.
24. Ngoài việc tạo các xung năng lượng (ví
dụ từ laser) vào Trường Điểm Không,
lĩnh vực electrokinetics cung cấp cho ta
những cách khác để trích xuất năng
lượng chân không và từ đó, tạo lực đẩy.
25. Các hệ thống Electrokinetic dùng tụ điện bất đối
xứng (asymmetric capacitors) để phá vỡ tính đối
xứng các lực cơ bản trong Trường Điểm Không
và, từ đó, tăng lực đẩy của hệ thống.
26. Để hiểu rõ hơn về khái niệm tính (bất) đối xứng
trong Trường Điểm Không đối với hệ điện, mời
Quý độc giả xem video của Marcus Reid,
“Điện năng dưới quan điểm
điện động lực học lượng tử”
(có phụ đề tiếng Việt)
http://youtu.be/fNMULeZSukU
27. Thường, để tăng
lực đẩy, hệ thống
Electrokinetic
dùng các lớp tụ
điện có hình dáng
tấm đặt ngang
nhau. Tụ điện
thường bằng
đồng (Cu).
28. Giữa mỗi lớp kim loại là chất điện môi
số “K” cao (high dielectric constant)
29. Nhà khoa học người
Đức, ông Rudolf Zinsser,
đã công bố nhiều kết quả
nghiên cứu trong lĩnh
vực Electrokinetics vào
thập niên 80. Trong
những thí nghiệm này,
ông thường dùng điện
môi nước
Rudolf Zinsser, "Mechanical Energy from Anistropic Gravitational Fields“, Planetary
Association for Clean Energy (PACE) Newsletter (December 1981),
http://www.rexresearch.com/zinsser/zinsser.htm
30. Tuy nhiên, các nghiên cứu sau Zinsser
cho thấy rằng barium titanate là
chất điện môi hiệu quả hơn
31. Barium titanate giúp chúng ta tăng
mật độ điện tích (charge density) –
nói cách khác, là mật độ electron --
trong hệ thống, một điều hết sức
quan trọng khi ta hiểu lực đẩy của
1 hệ electrokinetic theo 2
phương trình Jefimenko nêu trên.
32. Bên trong chất điện môi, các electron
được phân cực hóa.
Khi các electron chịu lực điện-động
học (electrokinetic force), chúng sẽ
kéo theo mình cả mạng tinh thể của
điện môi.
Xem Hossein Nili và Nicholas G. Green, “AC Electrokinetics of
Nanoparticles”, trong quyển Encyclopedia of Nanotechnology (2012),
tr. 18-25 và James Woodward, “Flux Capacitors and the Origin of
Inertia”, Foundations of Physics, V. 34 (2004), tra. 1475.
33. Đây là thiết bị tạo lực đẩy bằng các tụ điện
được thiết kế theo nguyên lý Electrokinetic
bởi nhà phát minh Hector Serrano
Đọc bằng sáng chế của Serrano tại đây:
http://www.amasci.com/caps/capatnt.html
34. J. Naudin đã sao bản thành công thiết
bị tạo lực đẩy của Serrano và đã chia
sẻ với cộng đồng NLM cách lắp ráp:
J. Naudin, Serrano’s Field Propulsion Thruster,
http://jnaudin.free.fr/lifters/act/html/sfptv1.htm
35. Jefimenko chỉ cho ta cách tính lực đẩy
điện-động học (electrokinetic force)
giữa 2 tấm kim loại trong các thiết bị
của Serrano và Naudin.
36. Trong hình vẽ
bên trái, dòng
điện trong 2
tấm kim loại
đang chảy
ngược nhau
nhờ dòng
điện xoay
chiều.Ở đây, x là khoảng cách giữa 2
tâm và w là chiều rộng của tấm.
37. Sử dụng phương trình
Jefimenko tính lực đẩy của trường điện-động
học (electrokinetic field hay Ek) như sau:
Ở đây, j là véc-tơ đơn vị của trục y
trong hình vẽ trên.
38. Trong hình vẽ, trục y chỉ
về phía trời. Nhờ dấu trừ
trong phương trình
có nghĩa rằng, lực đẩy của
thiết bị sẽ chỉ về mặt đất
và như thế, tàu bay sẽ
được đẩy lên trời.
39. Trong những bài báo
khoa học của mình
(trước khi công nghệ này
bị Bộ Quốc phòng Mỹ
xếp loại là bí mật quốc
gia khoảng năm 1958),
Brown đã giải thích về
chiều hướng của lực đẩy
electrokinetic bằng cách
nói rằng,
vật thể bay sẽ luôn luôn
di chuyển về hướng
điện tích dương.
40. Dưới đây là ví dụ cụ thể của một tàu bay phản
trọng lực được thiết kế theo các nguyên lý
trong điện-động học Electrokinetics:
41. Tàu bay này thuộc hạm đội tàu bay vũ
trụ bí mật của quan đội Hoa kỳ.
Nó được Marc McCandlish mô tả và
phân tích tỉ mỉ trong video dưới đây:
“Blueprint for a UFO”, http://youtu.be/CsCgYIVRnzA
42. Năm 2001, nhiều thông tin kỹ thuật về
tàu bay này được công bố tại Câu lạc
bộ Báo chí Quốc gia Hoa kỳ
(http://www.bibliotecapleyades.net/di
sclosure/briefing/disclosure14.htm)
43. Thiết bị tạo lực đẩy trong tàu bay này dung
các xung điện rất nhanh (mỗi xung được
tính bằng nano-giây)
44. Hãy chú ý thiết bị ở phía trên (giống như nắp bộ chia điện
trong ô tô) để điều khiên xung điện được truyền vào các
lớp điện môi và tấm kim loại luân phiên nhau
45. Những thí nghiệm gần đây trong lĩnh vực
electrokinetics cho thấy rằng, lực đẩy sẽ
được tăng lên hơn nữa khi chúng ta dùng
các lớp điện môi giữ được từ tính.
Đặc biệt, khả năng này được nghiên cứu bởi
Rex L. Schlicher và các đồng nghiệp trong
bằng sáng chế (Hoa kỳ) số 5,142,861 của
họ, mang tên “Nonlinear Electromagnetic
Propulsion System and Method.” (BSC
được cấp ngày 01/09/1992).
46. Một số chất liệu có khi được sử dụng trong
các thiết bị tạo lực đẩy electrokinetic là
bismuth và hợp kim của Magiê+kẽm
(trong hình dáng tấm siêu mỏng,
chỉ dày từ 1-4 micron)
47. Có lẽ 1 lý do các nhà sáng chế trong
lĩnh vực lực đẩy electrokinetic từng
thử nghiệm sử dụng bismuth là nó là
một chất nghịch từ
Xem 1 thí nghiệm khoa học tạo lực đẩy với bismuth tại
https://www.youtube.com/watch?v=MMEkA2_N6vY
48. Đặc biệt, Schlicher đã xác định 1 dạng
sóng cho xung điện mà ông cho là
tối ưu trong hệ thống lực đẩy
electrokinetic:
49. Kỹ thuật này đã góp phần giúp thiết kế bộ tạo lực
đẩy trong máy bay ném bom B-2, một loại máy bay
electrokinetic dùng công nghệ phản trọng lực
50. Một điều thú vị trong lĩnh vực electrokinetics
là, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng vị trí
các hành tinh trong Hệ Mặt trời ảnh hưởng
đến lực đẩy của tàu bay.
51. Các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực cũng ảnh
hưởng đến một hệ thống electrokinetic
52. Vì thế, khi bạn làm nhà khoa học Năng lượng
Mới, bạn phải tính đến các lực lớn của mặt
trời, mặt trăng và các hành tinh đang tác
động vào phòng thí nghiệm của mình.
53. Chúng ta sẽ đi sâu hơn vào lực xoắn của
các thiên thể trong chủ đề thứ 12:
Vật lý hình xoắn (Torsion physics)