SlideShare une entreprise Scribd logo
1  sur  122
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế xã hội và các tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ truyền thông, ngành truyền
hình ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hàng loạt kênh
truyền hình mới được cấp phép hoạt động[32], những chương trình truyền
hình mới đua nhau lên sóng đã làm bức tranh truyền hình ngày càng phong
phú, đa dạng hơn.
Cùng với việc các chương trình mới ra đời, số lượng người dẫn chương
trình truyền hình cũng tăng lên nhanh chóng. Ngoài lực lượng người dẫn
chương trình của các Đài truyền hình, còn có lực lượng người dẫn chương
trình là các văn nghệ sỹ, sinh viên các trường Đại học tham gia với tư cách là
người dẫn chương trình chuyên nghiệp hoặc cộng tác viên. Điều đó làm cho
đội ngũ tham gia vào công việc dẫn chương trình truyền hình ngày càng
phong phú[4, tr.238]. Nhiều người dẫn chương trình truyền hình đã khẳng
định được chỗ đứng của mình trong lòng công chúng. Sự đa dạng của người
dẫn chương trình cũng là một lý do lôi kéo khán giả đến với các chương trình
truyền hình.
Trên thực tế, vai trò của người dẫn chương trình truyền hình ngày càng
tỏ ra quan trọng khi mà sự phát triển mạnh mẽ của các chương trình truyền
hình đang khiến cho khán giả rơi vào càm giác bội thực thông tin. Chỉ có
những người dẫn chương trình truyền hình duyên dáng, thông minh, tin cậy
và đầy nhiệt huyết mới có thể lôi khán giả đến ngồi trước ti vi. Trong khi đó,
hiện nay tại Việt Nam, đội ngũ người dẫn chương trình truyền hình giỏi có
thể đếm trên đầu ngón tay[28]. Thiếu nguồn nhân lực cho các vị trí dẫn
chương trình đã khiến nhiều chủ nhiệm chương trình ở các đài truyền hình bắt
buộc sử dụng phương án thuê những cộng tác viên có chút ít kinh nghiệm và
lợi thế thanh sắc để chịu trách nhiệm dẫn các chương trình truyền hình.
Thế nhưng, ngay cả những người dẫn chương trình truyền hình thuộc
biên chế của các đài vẫn đang còn có quá nhiều hạn chế về trình độ chuyên
môn, thì không thể đòi hỏi các cộng tác viên dẫn chương trình có thể đủ sức
đảm đương một chương trình dài hơi hàng chục năm được. Tình trạng chương
trình chết yểu mà nguyên nhân do thiếu người dẫn chương trình truyền hình
tài năng, được đào tạo bài bản không phải xa lạ với khán giả cả nước.
Trong khi người dẫn chương trình truyền hình đang còn thiếu thốn trầm
trọng như vậy, thì, việc sản xuất chương trình mới vẫn cứ phải liên tục diễn
ra. Cho nên chúng ta thấy một người dẫn chương trình truyền hình, với phông
kiến thức còn nhiều hạn chế do không được trang bị kỹ năng tốt, vẫn hàng
ngày phải xuất hiện trên màn hình mỗi nhà. Người xem truyền hình sẽ không
thể nào chấp nhận được một người dẫn chương trình lý giải từ đồng bào là
cùng một tế bào của mẹ![49] Hay là một người dẫn chương trình truyền hình
trẻ tuổi trong một chương trình truyền hình trực tiếp liên tục phỏng vấn bà
Phó chủ tịch nước bằng câu: Xin chị cho biết…[49]. Những hạt sạn đó có thể
loại bỏ bớt nếu như chúng ta có được những nền tảng lý luận vững chắc cho
hoạt động của người dẫn chương trình truyền hình.[46]
Nhu cầu đào tạo nghiệp vụ dẫn chương trình nói chung và dẫn chương
trình truyền hình nói riêng đang gia tăng một cách nhanh chóng cũng là cơ sở
để chúng ta nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện những nghiên cứu liên quan
đến các thuật ngữ chỉ người dẫn chương trình truyền hình, xây dựng các tiêu
chí đánh giá kỹ năng, yêu cầu nghề nghiệp của người dẫn chương trình. Nếu
khoa học Lý luận báo chí, đặc biệt là Lý luận báo chí truyền hình không
nhanh chóng hình thành cho được những nguyên lý căn bản cho hoạt động
dẫn chương trình và người dẫn chương trình, thì nguy cơ hổng kiến thức
chuyên môn trong đội ngũ những người làm dẫn chương trình ở các đài sẽ
gây nên những tác hại không nhỏ. Thậm chí dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm
trong hoạt động dẫn chương trình truyền hình, từ đó kéo lùi sự phát triển của
lý luận về dẫn chương trình.
Việc tổ chức đào tạo người dẫn chương trình chuyên nghiệp cũng cần
phải có hệ thống lý luận riêng cho ngành này. Trong xu thế phát triển rất
nhanh của nghề dẫn chương trình, nếu cơ sở đào tạo nào nhanh chóng có
được hệ thống cơ sở lý luận phục vụ cho công tác đào tạo, thì cơ sở đó sẽ sớm
khẳng định được thương hiệu của mình trong xã hội.
Như vậy, việc nghiên cứu để xây dựng những tiêu chí về yêu cầu, kỹ
năng nghề nghiệp của một người dẫn chương trình truyền hình là yêu cầu tất
yếu khách quan, phù hợp với hoạt động lý luận và thực tiễn trong bối cảnh
hiện nay của ngành truyền hình, giúp cho việc đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn và kỹ năng của đội ngũ người dẫn chương trình truyền hình ở
nước ta, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, phục vụ tốt hơn
nhu cầu hưởng thụ giá trị văn hóa của nhân dân ta. Với những lý do trên, tác
giả luận văn chọn nội dung: Phẩm chất và kỹ năng cơ bản của người dẫn
chương trình truyền hình làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Theo khảo sát còn giới hạn của tác giả Luận văn, cho đến nay, tại Việt
Nam, những công trình nghiên cứu trước đây của các nhà khoa học có liên
quan đến yêu cầu kỹ năng của người dẫn chương trình truyền hình hầu như
không có. Chỉ có một số công trình của các tác giả đi trước, trong một số
chương mục có đề cập tới nghề dẫn chương trình truyền hình và người dẫn
chương trình truyền hình, thế nhưng, đó mới chỉ là những bài nghiên cứu giới
hạn với mức độ khảo sát ở phạm vi nhỏ, chủ yếu là những bài báo được giới
thiệu trên các tạp chí thuộc Hội nhà báo Việt Nam, Hội nhà báo TP Hồ Chí
Minh hay một số tài liệu in chung trong các tập sách tham khảo về nghề báo
nói chung.
Trong đó, đáng chú ý có một số tác phẩm sau đây:
Luận văn Thạc sĩ truyền thông đại chúng năm 2006 của Lê Thị Phong
Lan trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, đề tài Ngôn ngữ
của người dẫn chương trình truyền hình do PGS,TS Vũ Quang Hào hướng
dẫn. Luận văn phân tích đánh giá các chương trình giao lưu- gặp gỡ truyền
hình và vai trò của người dẫn chương trình. Tuy vậy, luận văn này chỉ tiếp
cận trong cách thức tổ chức và sử dụng ngôn ngữ của người dẫn chương trình.
Nghiên cứu ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cách thể hiện lời nói, điệu bộ, một
số yếu tố kỹ năng giao tiếp với người đối thoại của người dẫn trong các
chương trình, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ cho người
dẫn chương trình.
Ngoài ra một số tác phẩm: Những vấn đề của báo chí hiện đại của tác giả
Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, in năm 2007,
trong đó có bài: Lời dẫn và người dẫn chương trình, cũng nêu lên một số yêu
cầu chung cho người dẫn chương trình; phân tích lời dẫn và một số ý kiến về
người dẫn chương trình truyền hình ở Việt Nam hiện nay. Bài viết cũng chưa
đi sâu nghiên cứu chi tiết các yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp của một người
dẫn chương trình truyền hình.
Tác phẩm dịch từ nước ngoài có: Báo chí truyền hình, tập 2 của các
tác giả G.V Cu- dơ- nhét- xốp, X.L X-vích và A. Ia Iu-rốp-xki, nhà xuất
bản Thông tấn in năm 2004, trong đó có phần Người dẫn chương trình tin
tức, đây là những tri thức quý báu khi tác giả chỉ dùng 5 trang để diễn đạt
được những đặc tính quý báu của người dẫn chương trình, như: gương
mặt ăn hình, sự hiểu biết và lòng cảm thông của người dẫn chương trình,
ngữ điệu truyền cảm...
Trong cuốn Truyền thông đại chúng- Công tác biên tập do nhà xuất bản
Thông tấn in năm 2003 của tác giả Claudia Mast, cũng có trình bày đến tầm quan
trọng của người giới thiệu chương trình[19, tr.116]. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra
được một giới hạn đối tượng cho khái niệm người giới thiệu chương trình điều
mà nhiều tài liệu trước đó chưa chỉ ra.
Ngoài ra còn một cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2008 của
tác giả Carmine Gallo, với tựa đề 10 bí quyết thành công của những diễn giả, MC
tài năng nhất trên thế giới[11]. Trong đó, tác giả C.Gallo, đồng thời là một nhà
diễn thuyết tài năng của Mỹ đã chỉ ra những bí quyết của một người thuyết trình,
rất đáng được học hỏi.
Ngoài ra nữa, còn có một số tài liệu giảng dạy được ghi chép bởi các học
viên tại Truyền hình Việt Nam trong các buổi lên lớp của những giáo sư đến từ
Đại học Lille của Pháp, trong đó có đề cập đến những yêu cầu và kỹ năng căn
bản của một người dẫn chương trình truyền hình. Đây là tài liệu rất đáng quý,
bởi nó cung cấp một tri thức khá mới mẻ về yêu cầu kỹ năng của một người dẫn
chương trình.
Tuy vậy, tất cả các tài liệu này vẫn chưa đi sâu phân tích một cách bài bản về
người dẫn chương trình truyền hình cũng như những kỹ năng cần thiết của họ.
Đặc biệt, các tài liệu trên chưa đưa ra được một giới hạn đầy đủ cho các thuật ngữ
dùng để chỉ những người dẫn chương trình truyền hình; chưa đưa ra được tiêu chí
phân loại những người dẫn chương trình và cũng chưa đề cập một cách đầy đủ các
yêu cầu kỹ năng dựa trên những tiêu chí riêng cho từng dạng người dẫn chương
trình truyền hình.
Tác giả hầu như phải sử dụng nhiều tài liệu bằng tiếng nước ngoài, chủ yếu
là tiếng Anh, thông qua các nguồn: như thư viện trực tuyến Wikipedia.com; một
số trang web chuyên về đào tạo người dẫn chương trình của Anh, Mỹ,
như:http://www.pozitiv.com; http://www.mediacollege.com; tvpresenter.com…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về phẩm chất, kỹ năng
của người dẫn chương trình truyền hình, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao phẩm chất và kỹ năng cơ bản của người dẫn chương trình truyền hình
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích của luận văn này, tác giả mong muốn thực hiện được các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về người dẫn chương trình
truyền hình.
- Khảo sát một số phẩm chất kỹ năng cơ bản của người dẫn chương trình
truyền hình.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng người dẫn chương trình
truyền hình ở Việt Nam hiện nay..
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là yêu cầu, phẩm chất, kỹ năng nghề
nghiệp của người dẫn chương trình truyền hình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả xác định phạm vi thời gian để khảo sát từ tháng 1/2007 đến tháng
12/2008. Để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả cũng dự kiến sẽ tiến
hành phát phiếu điều tra trong 224 người dẫn chương trình thuộc 9 đài Phát thanh
truyền hình trong cả nước và các công ty truyền thông, bao gồm: Đài truyền hình
Việt Nam VTV; Đài truyền hình Kỹ thuật số Việt Nam VTC; Đài PTTH Hà Nội
HTV; Đài PTTH Hải Phòng THP; Đài PTTH Thanh Hóa TTV; Đài PTTH Nghệ
An NTV; Đài PTTH Đồng Tháp ĐTV; Đài PTTH Sơn La STV; Đài PTTH Tuyên
Quang TTV; Đài PTTH Điện Biên ĐTV; Đài PTTH Bình Dương BTV; Kênh
truyền hình 02TV; Kênh truyền hình VTC8; Đài PTTH Bắc Ninh; Công ty cổ
phần truyền thông Nhật Minh; Công ty cổ phần truyền thông quốc tế VTCI.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; Luận văn cũng được nghiên cứu trên cơ sở tham khảo và kế thừa
kết quả nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực báo chí, truyền hình của các tác giả
đi trước.
5.2. Phương pháp cụ thể
- Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, logic lịch sử,
phương pháp hệ thống và các phương pháp xã hội học như: phương pháp nghiên
cứu định tính và định lượng, điều tra xã hội học bằng bảng hỏi để làm cơ sở cho
các phân tích.
- Luận văn cũng kế thừa những mặt hợp lý của các tài liệu trong và ngoài
nước có liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Về mặt lý luận
Trên phương diện lý luận, luận văn góp phần bổ sung nền tảng lý luận cho
lĩnh vực còn tương đối mới mẻ tại Việt Nam, đó là lý luận về yêu cầu, phẩm chất,
kỹ năng của người dẫn chương trình truyền hình. Góp phần đưa ra những góc
nhìn mới, đa diện để phát triển lý luận cho lĩnh vực này.
6.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài luận văn này sẽ tập trung làm rõ các khái niệm về người dẫn
chương trình truyền hình, cũng như phân tích những yêu cầu, phẩm chất, kỹ
năng cần thiết đối với người dẫn chương trình truyền hình theo từng thể loại.
Luận văn này sẽ là căn cứ khoa học để những người dẫn chương trình có
thể vận dụng lý luận về hoạt động dẫn chương trình truyền hình vào hoạt
động thực tiễn. Đây cũng có thể trở thành một tài liệu tham khảo đối với
những người không hoạt động trong lĩnh vực truyền hình, nhưng muốn tìm
hiểu các kỹ năng của một người dẫn chương trình để phục vụ cho các công
việc liên quan.
Tác giả luận văn cũng mong muốn có thể dành nhiều thời gian hơn nữa
để nghiên cứu và phát triển luận văn trở thành một tài liệu tham khảo trong
các cơ sở đào tạo người dẫn chương trình truyền hình.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn này
được kết cấu gồm 3 chương, 10 tiết, 96 trang.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGƯỜI DẪN
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
1. Lịch sử phát triển của thuật ngữ người dẫn chương trình truyền hình
1.1.Trên thế giới
Trên thế giới những khái niệm đầu tiên về người dẫn chương trình được biết
đến từ thời Phục Hưng và xuất phát từ hoạt động của các Nhà thờ Công giáo[30].
Trong các nhà thờ người ta gọi những người điều hành các buổi lễ tế, các chủ lễ,
hay Chưởng nghi là Master of Ceremonies(gọi tắt là MC). Đó là người rất quan
trọng của buổi lễ tế, họ phải chịu trách nhiệm tiến hành một cách chính xác và
suôn sẻ các buổi lễ, cũng như các nghi thức liên quan. Tên của những Masters of
Ceremonies(người chủ lễ) được biết kể từ cuối Trung Cổ (thế kỷ 15) và thời Phục
Hưng (Renaissance) ở thế kỷ 16[40]. Tại một nhà thờ Công giáo lớn, Master of
Ceremonies cũng chịu trách nhiệm về an ninh của nơi thờ phụng trong các buổi
cầu nguyện. Đặc biệt trong những lễ hội lớn như Lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh,
các Master of Ceremonies giữ một vai trò rất quan trọng, họ phải đảm bảo rằng tất
cả mọi thứ đều vận hành thuận lợi[40].
Người ta đã giả định rằng nguồn gốc của Master of Ceremonies có thể đã
được hình thành từ thời gian Hoàng đế Constantine Great (Năm 324), hoặc từ
trong thời gian Đạo Cơ đốc trở thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La Mã
năm 380.[30]
Vào thập niên 1970 và thập niên 1980, thuật ngữ MC có liên hệ với âm
nhạc hip-hop, và là từ để chỉ người, mà bây giờ thường được gọi là "rapper"-
tức là người đọc-chơi nhạc rap. Khi ấy, người ta còn coi MC là viết tắt của
những cụm từ như: Microphone Controller, Mic Checka, Music Commentator
và Moves the Crowd, được hiểu là người chỉnh nhạc. Ở một số quốc gia khác,
người dẫn chương trình còn có trách nhiệm biên tập chương trình và chính
mình giới thiệu, dẫn dắt cho chương trình đó.[40] Thậm chí, trong quá khứ
hoàng gia châu Âu, Masters of Ceremonies là người chịu trách nhiệm tiến
hành các nghi thức trong các buổi lễ ngoại giao của hoàng tộc.
Từ điển Wikipedia.com định nghĩa:“Người dẫn chương trình, hay còn
gọi là em-xi (MC) do gọi tắt từ tiếng Anh: Master of Ceremonies, theo nghĩa
thông thường được hiểu là người hướng dẫn quần chúng trong một sự
kiện”[30]. Hiểu một cách chính xác, MC là người tổ chức sự kiện, và sự kiện
đó chỉ diễn ra trong vòng một đêm.
Trong lĩnh vực truyền hình, ở Mỹ[30], người ta cũng dùng thuật ngữ MC
dùng để chỉ người dẫn chương trình truyền hình, tương tự như từ Host. Thế
nhưng do khả năng phân biệt của từ này quá rộng, nên trong lĩnh vực truyền
hình, người ta thường dùng các thuật ngữ khác có khả năng diễn đạt cụ thể
nội hàm của nó, ví dụ như: Chúng ta thấy cách dùng thuật ngữ News
presenter của người Anh để gọi người dẫn chương trình tin tức trên truyền
hình, đó là người có nhiệm vụ xây dựng một khung chương trình Tin tức,
quyết định lựa chọn những tin tức nóng hổi, xắp sếp thứ tự tin và đồng thời
anh ta(hay cô ta) dẫn chương trình đó, để mang chương trình tin tức đó đến
với những khán giả của họ. Hoặc người Mỹ sẽ dùng thuật ngữ: show host để
gọi người thực hiện và hướng dẫn các chương trình talk show hay game show.
Chẳng hạn, người ta gọi Larry King ở talk show mang tên Larry King Live là
talk show host. Trên thực tế, khi chuyển nghĩa của từ talk show host sang
tiếng Việt chúng ta vẫn chưa có một khái niệm tương ứng, bởi một talk show
host như Larry King hay Oprah Winfrey, họ không chỉ làm công việc dẫn
chương trình, mà còn là tác giả của format, tác giả kịch bản, thậm chí tổ chức
sản xuất chương trình đó. Chính vì còn nhiều khác biệt như vậy, nên tác giả
luận văn chỉ nghiên cứu ở góc độ chức năng là một người dẫn chương trình
mà thôi.
Hoặc truyền hình ở Anh thường dùng từ Newscaster để gọi người dẫn ở
mục điểm tin. Trong khi đó tại Mỹ và Canada người ta gọi các Newscaster và
News presenter là News Anchor. Riêng hãng tin BBC lại gọi các Newscaster
và News presenter là: Newsreader.
1.2. Ở Việt Nam
Khác với các nước có nền truyền hình phát triển mạnh trên thế giới, khi
du nhập vào Việt Nam, thuật ngữ MC được người ta dùng để gọi tắt chức
danh người dẫn chương trình truyền hình, ban đầu là tại đài Truyền hình Việt
Nam(MC truyền hình). Chưa có một tài liệu nào khẳng định thuật ngữ này
chính thức được nhập vào Việt Nam từ bao giờ, song rõ ràng nó có sức sống
khá mãnh liệt ở mảnh đất còn rất màu mỡ này.
Trước khi thuật ngữ MC trở nên phổ biến như hiện nay, thì người ta gọi
những người làm công việc dẫn chương trình trên truyền hình là phát thanh
viên, hay biên tập viên hoặc đơn giản là người dẫn chương trình.
Thuật ngữ người dẫn chương trình ở Việt Nam mới chỉ xuất hiện thời
gian gần đây (có thể) từ khi Truyền hình Việt Nam(VTV) bắt đầu sản xuất
các chương trình Trò chơi, đó là vào thời điểm những năm 1996, 1997 với
chương trình đầu tiên là SV 96 do nhà báo Lại Văn Sâm dẫn(trước đó ở VTV
và các đài truyền hình địa phương, người ta gọi những người dẫn chương
trình trên truyền hình là các phát thanh viên). Sau đó là thời gian phát triển
mạnh mẽ các chương trình trò chơi trên truyền hình, điều đó bắt buộc VTV
phải có đội ngũ những người dẫn chương trình nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu
này. Một loạt chương trình mới như: Từ ánh mắt đến trái tim gắn với tên tuổi
người dẫn chương trình Hoa Thanh Tùng; Trò chơi liên tỉnh gắn với tên tuổi
nhà báo Lại Văn Sâm, Đỗ Hồng Cư…; Vườn cổ tích với sự dẫn dắt của Thuận
Sơn; Đường lên đỉnh Olimpia với sự dẫn dắt của nhà báo Tạ Bích Loan, Lưu
Minh Vũ, Tùng Chi…; Ở nhà chủ nhật với sự xuất hiện của Bùi Thu Thủy
trong vai trò người dẫn chương trình…
Những năm gần đây, đặc biệt từ những năm 2000 trở lại đây là thời kỳ
hoàng kim của các chương trình trò chơi truyền hình, người ta thấy hàng loạt
chương trình mới, chủ yếu là các chương trình trò chơi mua bản quyền từ
nước ngoài: Hãy chọn giá đúng với người dẫn là nhà báo Lại Văn Sâm, Lưu
Minh Vũ; Ai là ai do Kim Khánh dẫn; Trò chơi âm nhạc với sự xuất hiện của
Anh Tuấn, Diễm Quỳnh; Đấu trường 100 với Thái Tuấn…Hàng loạt chương
trình mới ra đời đồng nghĩa với sự xuất hiện của các người dẫn chương trình
ngày càng nhiều hơn.
Cùng với sự phát triển mạnh các thể loại chương trình truyền hình, sự
ảnh hưởng của truyền hình tới thói quen sử dụng ngôn ngữ của khán giả cũng
lớn hơn. Hiện tượng chức danh người dẫn chương trình truyền hình được đọc
tắt, viết tắt là MC, có thể xuất hiện trong hoàn cảnh như vậy.
Giờ đây, dưới ảnh hưởng của truyền hình, cách gọi người dẫn chương
trình thậm chí có tần suất xuất hiện còn ít hơn cách gọi tắt MC, đặc biệt trong
phong cách ngôn ngữ lời nói.
Như vậy, khác (thậm chí ngược lại) với các nước như: Anh, Mỹ,
Canada…(Như ở trên đã nói, ở các nước Anh, Mỹ. Canada…người ta không
dùng thuật ngữ MC với tư cách là một người dẫn chương trình truyền hình); ở
Việt Nam, thuật ngữ MC là thuật ngữ du nhập, ban đầu được sử dụng nhiều
trên các phương tiện thông tin đại chúng, nó là cách gọi tắt, dùng để chỉ
người dẫn chương trình truyền hình. Sau đó dưới ảnh hưởng của các phương
tiện thông tin đại chúng và nhu cầu sử dụng trong đời sống xã hội, thuật ngữ
này đã được ứng dụng rộng rãi, hiện nay, từ MC được hiểu là dùng để chỉ:
người dẫn chương trình nói chung. Chúng ta có thể thấy, trong bất kỳ sự kiện
nào, từ hôn sự cho tới các buổi trình diễn ca nhạc; từ cuộc giới thiệu sản phẩm
mới đến cuộc trao giải Cánh diều vàng…đều xuất hiện người dẫn chương
trình và được giới thiệu là MC. Thuật ngữ này ngày càng có xu hướng được
mở rộng nội hàm và được xã hội chấp nhận.
2. Vai trò của người dẫn chương trình truyền hình
Dẫn chương trình là một mắt xích trong quy trình sản xuất một chương
trình truyền hình. Người dẫn chương trình truyền hình là thành viên của ê kíp
sản xuất chương trình đó.
Trong hầu hết các chương trình truyền hình đều có sự tham gia của người
dẫn chương trình. Tùy vào đặc điểm thể loại tác phẩm, tùy thuộc vào yêu cầu thực
tế của công việc, mà người dẫn chương trình được đòi hỏi thể hiện vai trò, nhiệm
vụ khác nhau, thế nhưng, điểm chung nhất, người dẫn chương trình chính là cầu
nối đầu tiên đưa khán giả đến với tác phẩm truyền hình.
Người dẫn chương trình là người giới thiệu chương trình. Anh ta có
trong tay toàn bộ nội dung, chi tiết trình tự diễn tiến của chương trình. Đồng
thời anh ta phải chịu trách nhiệm có tính quyết định về hiệu quả toàn bộ
chương trình, anh ta có nhiệm vụ dẫn dắt làm cho mọi người thấy được chủ
đề xuyên suốt của chương trình.
Nhưng người dẫn chương trình còn phải có khả năng tạo dựng bầu không
khí cho toàn bộ chương trình bằng cách tạo ra các đột biến cao trào phấn khởi
hay lắng đọng sâu xa nhằm thu hút, lôi cuốn mọi người theo một tiết tấu có
tính toán trước một cách khéo léo và chu đáo theo kịch bản. Sự xuất hiện của
người dẫn có thể ngắn ngủi thoáng qua, nhưng lại có thể làm nổi bật những
thông tin mà anh ta giới thiệu.
“Người dẫn chương trình là chất liệu sống động nhất và cũng chủ động
nhất để cấu trúc một chương trình truyền hình.”[43]
Trên thực tế, ở các kênh truyền hình nước ngoài, chúng ta vẫn thường thấy
những chương trình truyền hình mang tên người dẫn ví dụ như: Larry King Live;
hay The Oprah Winfrey Show…Ở đây vai trò của cá nhân Larry King hoặc Oprah
Winfey là rất quan trọng, họ là tác giả của format chương trình đồng thời là người
dựng kịch bản, dẫn chương trình, thậm chí tổ chức sản xuất. Với những chức năng
như vậy, có thể nói, đó là linh hồn của một chương trình.
Không những thế, người dẫn chương trình còn phải là bộ mặt của chương
trình, thậm chí của cả một đài truyền hình. Để đạt được điều đó, ngoài tài năng và
những phẩm chất cá nhân được gọt rũa thường xuyên, thì người dẫn chương trình
còn phải là người được tin tưởng bởi những giá trị đạo đức cá nhân.
Ngày nay, trong xu thế phát triển, ngành truyền hình ở Việt Nam không chỉ
cần một đội ngũ người dẫn nhiều về số lượng mà còn phải có chất lượng tốt. Hay
nói cách khác, muốn khẳng định được vị trí và uy tín của mình truyền hình phải
xây dựng được đội ngũ người dẫn chương trình có phong cách, có cá tính[42].
Điều này xuất phát từ thực tế: trong số hàng chục, hàng trăm người dẫn chương
trình, những người dẫn nào được khán yêu mến nhất, chính là những người có cá
tính nhiều nhất. Và những chương trình được dẫn dắt, điều khiển bởi người dẫn có
cá tính rõ ràng, mới mẻ bao giờ cũng thu hút được lượng khán giả đông nhất.
Người dẫn chương trình tài năng là người không chỉ hoàn thành nhiệm vụ
làm cầu nối chuyển tải thông điệp mà một chương trình muốn mang đến cho khán
giả, mà còn phải là người tạo ra sự cuốn hút, thôi thúc khán giả đến với những
chương trình do anh ta dẫn. Bằng tất cả kỹ năng và kinh nghiệm của mình, người
dẫn phải làm chủ được mọi tình huống có thể xảy ra, đặc biệt với những chương
trình được thực hiện với phương thức truyền hình trực tiếp, thì vai trò của người
dẫn là cực kỳ quan trọng. Cũng giống như tướng ra mặt trận, anh ta sẽ phải chịu
trách nhiệm cho tất cả các quyết định mang tính chiến thuật của mình được tổ
chức trong trận đánh. Người dẫn trực tiếp cũng như vậy, đôi khi trong những
trường hợp bất khả kháng, người dẫn phải là người điều hành để chương trình
diễn ra một cách suôn sẻ nhất, mà không có được sự hỗ trợ từ đạo diễn. Chẳng
hạn, với chương trình tọa đàm, khi gặp phải một nhân vật đã cao tuổi, lại nói rất
nhiều, thật khó cho một người dẫn thiếu kinh nghiệm. Anh ta sẽ không biết phải
ngắt lời của vị khách mời đó như thế nào. Hoặc khi thời gian cho chương trình sắp
hêt, nhưng những nội dung mà khách mời muốn trao đổi thì còn rất nhiều và rất
hấp dẫn. Lúc đó, người dẫn chương trình giỏi phải là người biết can thiệp một
cách lịch sự và không khiến cho khách mời cũng như khán giả cảm thấy khó chịu.
Một người dẫn chương trình tồi chính là thảm họa cho cả ê kíp sản xuất. Đó
là lý do vì sao truyền hình phương Tây và các nước có nền truyền hình phát triển
lâu đời, thường chọn những người dẫn chương trình là những người trung niên,
với những yêu cầu nghiêm khắc về kinh nghiệm nghề nghiệp. Khi nghiên cứu vấn
đề này, chúng tôi thấy rằng, hầu như trong tất cả các chương trình tin tức hoặc các
chương trình tọa đàm của truyền hình phương Tây, thì người dẫn phải là người đã
tốt nghiệp một trường hay một khóa đào tạo về báo chí chuyên nghiệp; ngoại trừ
những trường hợp tài năng hoặc có vị trí đặc biệt, một người dẫn chương trình
truyền hình bắt buộc phải trải qua những vị trí công tác ở cấp thấp hơn, có thể là
từ một đài truyền hình của địa phương, hoặc đảm nhận những công việc khác
trong một ê kíp sản xuất.
Điều này có vẻ hơi trái ngược với thói quen sử dụng người dẫn chương trình
ở Việt Nam, và thậm chí cả Trung Quốc, khi chúng ta sử dụng quá nhiều người
dẫn trẻ tuổi cho, đặc biệt là, các chương trình tin tức chính luận, là những chương
trình yêu cầu những người dẫn chương trình có nhiều kinh nghiệm và khả năng
ứng phó nhanh.
3. Các tiêu chí để phân biệt một người dẫn chương trình truyền hình.
3.1. Như đã phân tích ở trên, do là lĩnh vực tương đối mới ở Việt Nam, nên
hệ thống thuật ngữ, khái niệm liên quan đến người dẫn chương trình truyền
hình và hoạt động dẫn chương trình truyền hình ở nước ta vẫn còn khá ít.
Thậm chí có những giai đoạn, việc định danh các tên gọi chỉ người dẫn
chương trình truyền hình còn bị rơi vào tình trạng tùy tiện.
Trong luận văn này, tác giả đề xuất cách gọi chung cho những người
thực hiện hoạt động dẫn các chương trình phát sóng trên các đài truyền hình
là: người dẫn chương trình truyền hình, và không đề xuất cách gọi tắt là
MC. Những trường hợp mà một người dẫn chương trình đồng thời làm luôn
cả nhiệm vụ của một người tổ chức sản xuất, xây dựng kịch bản, như trường
hợp của Larry King hoặc Lại Văn Sâm ở VTV, thì, chúng tôi chỉ nghiên cứu
ở góc độ công việc dẫn chương trình của họ mà thôi.
Hiện nay, trong thực tế đời sống truyền hình, đang tồn tại phổ biến một
quan điểm phân chia những người dẫn chương trình truyền hình thành 3 nhóm
sau đây: nhóm người dẫn chương trình thời sự, chính luận; nhóm người
dẫn chương trình khoa học, giáo dục và; nhóm người dẫn chương trình
trò chơi truyền hình.
Trong cách phân loại này, người ta phân biệt người dẫn chương trình này
với người dẫn khác thông qua lĩnh vực hoạt động, và đặc trưng khu biệt ở đây
là các lĩnh vực khác nhau của đối tượng được phản ánh. Ví dụ, đó là lĩnh vực
thời sự chính luận hay lĩnh vực khoa học giáo dục.
Tác giả luận văn không đồng tình với cách phân loại như vậy. Thực tế,
dù là lĩnh vực thời sự chính luận hay lĩnh vực khoa học giáo dục, thì việc dẫn
một bản tin Thời sự tổng hợp cũng không khác gì việc dẫn một bản tin Khoa
học công nghệ. Cụ thể, công việc của người dẫn chương trình là sẽ phải biên
tập nội dung lời dẫn mà Ban biên tập chương trình, hoặc người tổ chức sản
xuất đã phê duyệt, cho phù hợp với văn phong và cách trình bày của mình,
sau đó họ sẽ thực hiện ghi hình tại trường quay, hoặc phát sóng trực tiếp, tùy
theo yêu cầu của từng đài truyền hình. Điểm khác biệt rõ nhất ở đây là hàm
lượng thông tin khoa học giáo dục trong bản tin Khoa học giáo dục cao hơn
trong một Bản tin Thời sự tổng hợp. Vậy, liệu điều đó có thể phân biệt được
đặc điểm riêng của một người dẫn chương trình ở chương trình này và
chương trình khác hay không ? Hoàn toàn không. Bởi, để phân biệt phong
cách của người dẫn chương trình này hay chương trình khác phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác hơn là yếu tố lĩnh vực hoạt động. Chẳng hạn, chúng ta có
thể phân biệt rõ ràng hơn phong cách của một người dẫn Bản tin thời sự với
một người dẫn chương trình Khoa học vui. Và những yếu tố để phân biệt là
gì? Đó phải là: cách thức tiếp cận khán giả của người dẫn; diện mạo trang
phục của họ; phong cách lời dẫn; các yếu tố ngôn ngữ hình thể…
Từ những yếu tố này, xem lại cách phân loại ở trên, chúng ta thấy, một
người dẫn Bản tin thời sự có chung cách thức tiếp cận khán giả với người dẫn
chương trình Bản tin khoa học, ở chỗ, họ cùng có chung một kiểu khuôn hình,
thường là bắt trung hoặc cận cảnh người dẫn trong phòng thu; họ cùng có
chung một kiểu diện mạo và trang phục tương đối chỉn chu; họ cùng có chung
một phong cách lời dẫn mang tính chất chính luận, và, họ hầu như không phát
huy yếu tố ngôn ngữ cơ thể. Lấy ví dụ như chương trình Thời sự của VTV và
series chương trình Bảy ngày công nghệ cũng của VTV.(1)
Vậy, làm sao có thể phân biệt được những người dẫn chương trình khác
nhau nếu chỉ dựa vào yếu tố lĩnh vực hoạt động.
Một ví dụ khác, khi so sánh phong cách của một người dẫn chương trình
trò chơi truyền hình Hành trình văn hóa với phong cách dẫn chương trình của
người dẫn chương trình Theo dòng lịch sử; tác giả luận văn này cũng rất khó
phân biệt rạch ròi những đặc điểm khu biệt phong cách dẫn của Bạch
Dương(Hành trình văn hóa) với phong cách dẫn của Nguyên Sơn(Theo dòng
lịch sử). Bởi, nếu dựa trên yếu tố lĩnh vực hoạt động, thì, Bạch Dương và
Nguyên Sơn sẽ phải có nhiều điểm khác nhau. Nguyên Sơn dẫn chương trình
Theo dòng lịch sử, một chương tình thuộc Ban Khoa giáo, THVN; Bạch
Dương dẫn chương trình Hành trình văn hóa, một chương trình thuộc Ban Thể
thao- giải trí- thông tin kinh tế, THVN. Nhưng trên thực tế, cả người dẫn Nguyên
Sơn và Bạch Dương đều có chung một phong cách xuất hiện trước công chúng,
đó là xuất hiện trong một không gian rộng, bao gồm trường quay và những người
chơi lẫn khán giả, với khuôn hình đại toàn cảnh; ngôn ngữ cơ thể của 2 người dẫn
này được biểu hiện khá triệt để với việc đi lại nhiều trên sân khấu, động tác tay
chân, mặt thể hiện rất hiệu quả; trang phục và phong cách trang điểm của cả 2
người dẫn khá phong phú, và, ngôn ngữ lời dẫn khá sinh động.(2)
Thứ hai, quan điểm phân chia theo lĩnh vực hoạt động ở trên cũng thực sự
chưa chính xác. Chúng ta hãy cùng nhìn lại, cách phân chia lĩnh vực như ở trên đã
khoa học hay chưa, khi ta thấy rằng, vẫn còn sự nhập nhằng giữa cách gọi nhóm
chương trình thuộc lĩnh vực trò chơi truyền hình với cách gọi nhóm chương trình
khoa học giáo dục và nhóm chương trình thời sự chính luận.
Ví dụ, với tư cách là một thể loại tác phẩm truyền hình, Trò chơi truyền hình
có thể dung nạp tất cả các chương trình truyền hình được thực hiện dưới hình thức
trò chơi, có thể bao gồm cả những chương trình thuộc lĩnh vực giải trí, và những
chương trình thuộc lĩnh vực khoa học, giáo dục, như: Theo dòng lịch sử, Hãy
chọn giá đúng(VTV),Thần đồng đất Việt(VTC), Nốt nhạc kỳ diệu(HTV)…(3)
Và, khi phân chia những tác phẩm, những chương trình truyền hình, có lẽ
chúng ta cũng không nên căn cứ vào lĩnh vực được phản ánh, mà nên chăng, phải
phân biệt chúng dựa vào đặc trưng thể loại. Đến đây sẽ xuất hiện một vài khó khăn,
đó là, vốn dĩ là một lĩnh vực còn mới ở Việt Nam, nên những công trình nghiên cứu
lý luận về truyền hình vẫn còn khá thưa thớt, chính vì vậy, cho đến nay vẫn chưa có
được một quan niệm phân chia thể loại hoàn chỉnh trong lĩnh vực truyền hình. Điều
này rất cần các nhà nghiên cứu bắt tay để tổng kết thực tiễn hoạt động sản xuất
chương trình truyền hình và xây dựng nên hệ thống lý thuyết về thể loại tác phẩm
truyền hình, có như vậy mới có thể hy vọng vào một sự nhất quán trong quan niệm
về các khái niệm phái sinh.(Bản thân tên gọi các dạng người dẫn chương trình
truyền hình cũng là một khái niệm phái sinh). Trong khi chờ đợi có được sự thống
nhất trong nghiên cứu về thể loại tác phẩm truyền hình, thì chúng ta cũng không
nên vì thế mà dễ dàng chấp nhận những khái niệm chưa chuẩn mực.(4)
Việc định danh cho một kiểu tác phẩm, một kiểu công việc trong quy trình sản
xuất chương trình truyền hình, trong khi, chưa có sự nhất quán mang tính chất khoa
học, có thể được chấp nhận, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực tiễn.
Song, một khi đã có những ý kiến phản biện, thì thiết nghĩ, chúng ta cũng nên công
bằng và khách quan, đồng thời tạo điều kiện để các ý tưởng mới có cơ hội chứng
minh, góp phần hình thành diện mạo cho ngành khoa học lý luận truyền hình.
Từ (1), (2), (3), và (4) tác giả luận văn đề xuất cách phân loại mới dựa trên lý
thuyết về tính trội của các yếu tố hình thức đặc trưng về: bối cảnh ghi hình; cách
thức tiếp cận khán giả của người dẫn; diện mạo trang phục của họ; phong cách lời
dẫn; các yếu tố ngôn ngữ hình thể; giọng nói; cách biểu đạt…
Sở dĩ tác giả luận văn không dựa trên tiêu chí về thể loại, là vì, như đã nói ở
trên, hệ thống thuật ngữ, khái niệm về thể loại tác phẩm truyền hình ở Việt Nam
chưa hoàn thiện, nên tác giả đề xuất một cách tiếp cận dựa trên những đặc điểm
khác nhau về những yếu tố hình thức chung cấu thành nên tác phẩm truyền hình đó.
Cho đến khi có được những kết quả nghiên cứu thống nhất về thể loại tác phẩm
truyền hình, tác giả luận văn sẽ xem xét để hoàn thiện cách tiếp cận của mình.
3.2. Các tiêu chí phân loại người dẫn chương trình truyền hình
3.2.1. Bối cảnh ghi hình
Đây là yêu tố hình thức giúp phân biệt những bối cảnh làm việc chung
của một người dẫn chương trình. Thông thường, sự phân biệt bằng yếu tố này
tỏ ra không rõ rệt lắm, chẳng hạn một người dẫn chương trình tạp chí thông
thường sẽ xuất hiện trong bối cảnh ở trường quay hoặc phòng thu, thế nhưng,
trong một số trường hợp, để tăng hiệu quả hình ảnh anh ta sẽ xuất hiện tại
hiện trường để giới thiệu về một chủ đề nào đó. Và khi đó, chúng ta thấy bối cảnh
xuất hiện của anh ta sẽ giống với bối cảnh xuất hiện của một người dẫn chương
trình trò chơi vận động. Chính vì vậy, chúng ta phải có rất nhiều yếu tố khác để
giúp cho việc phân biệt được dễ dàng hơn.
Có 2 kiểu bối cảnh ghi hình chính:
+ Bối cảnh ghi hình trong trường quay(hoặc trong phòng thu).
+ Bối cảnh ghi hình ngoài hiện trường(bao gồm cả hiện trường ảo, hiện trường
thực tế được thiết kế trong trường quay)
3.2.2. Phương thức xuất hiện của người dẫn
Phương thức xuất hiện của người dẫn tức là cách thức anh ta xuất hiện trên
màn hình. Phương thức xuất hiện có thể chia thành 4 dạng: xuất hiện trực tiếp
hoặc xuất hiện không trực tiếp; xuất hiện đơn phương thức hoặc xuất hiện đa
phương thức.
Trong truyền hình hiện đại, người ta càng ngày càng chú trọng phương thức
xuất hiện trực tiếp của người dẫn chương trình trong các bản tin thời sự, các chương
trình tọa đàm. Điều này sẽ khiến cho những thông tin của chương trình tin tức( ở
Việt Nam phổ biến cách hiểu là bản tin thời sự) trở nên nhanh hơn, cập nhật hơn.
Tương tự như vậy, việc phát sóng trực tiếp các chương trình tọa đàm sẽ khiến nó
hấp dẫn hơn bởi những bất ngờ do những tình huống nói chuyện của người dẫn và
khách mời mang lại. Không những thế, khán giả có thể nhìn thấy diễn tiến câu
chuyện với những gì thật nhất, mà không bị giấu đi bởi bàn tay của biên tập.
Ngược lại, trong một số thể loại khác, như Trò chơi truyền hình, chi phí sản
xuất, chẳng hạn như việc dựng một trường quay cho chương trình Ai là triệu
phú rất tốn kém, người ta sẽ phải thu hàng chục chương trình trong một ngày và
sau đó thực hiện hậu kỳ để phát lại. Ngoài ra, với những chương trình trò chơi,
tính chất công việc tương đối phức tạp, liên quan đến nhiều bộ phận, nên, để
đảm bảo an toàn sóng, những nhà tổ chức sản xuất cũng thường chọn phương
thức phát lại.
Bốn phương thức xuất hiện của người dẫn chương trình truyền hình:
+ Phương thức xuất hiện trực tiếp
+ Xuất hiện không trực tiếp
+ Đơn phương thức
+ Đa phương thức: phân biệt đơn phương thức và đa phương thức là dựa
trên yếu tố đa dạng trong việc người dẫn xuất hiện trên sóng, chẳng hạn, để phân
biệt sự xuất hiện của người dẫn tạp chí với người dẫn chương trình tin tức. Khán
giả có thể thấy, một người dẫn tạp chí có thể xuất hiện với nhiều bối cảnh khác
nhau tùy thuộc vào nội dung tạp chí đó, trong khi, người dẫn chương trình tin tức
hầu như chỉ xuất hiện trong một bối cảnh phòng thu.
3.2.3. Trang phục
Trang phục là một trong những yếu tố hình thức thể hiện rõ nhất sự khác
nhau của người dẫn chương trình. Đặc biệt dễ dàng để phân biệt một người dẫn
chương trình tin tức với một người dẫn chương trình trò chơi. Ngoại trừ phong
cách riêng trong cách ăn mặc của mỗi người dẫn, có thể thấy, thông thường, một
người dẫn chương trình tin tức bao giờ cũng phải tuân thủ những quy định rất
nghiêm ngặt của Ban biên tập, trong khi đó, người dẫn trò chơi truyền hình có
thể phóng khoáng hơn rất nhiều trong việc lựa chọn trang phục cho mình.(Xem
thêm Phụ lục 2)
Có 2 dạng phong cách trang phục:
+ Phom chuẩn(áo dài với nữ, vest đối với nam).
+ Đa dạng.người ta không khuyến khích phương thức phát sóng trực tiếp.
Lý do là vì, để tiết kiệm
3.2.4. Ngôn ngữ cơ thể
Yếu tố này ngày càng được đề cao đối với một người dẫn chương trình.
Đó là khả năng xử lý ngôn ngữ của cơ thể, nó bao gồm: tư thế, cử chỉ, điệu
bộ, sự liên hệ của mắt.
Một nghiên cứu của thiyagarajan.wordpress.com khẳng định, những gì
mà cơ thể của chúng ta làm, có thể chuyển tải nhiều thông điệp hơn là chúng
ta nghĩ. Chẳng hạn, mắt có thể tạo ra sự tương tác tốt hơn đối với người xem
truyền hình, còn những cử chỉ có thể khiến cho lời dẫn của bạn thêm năng
lượng và sự tự tin. Tư thế cũng có thể ảnh hưởng đến tâm lý của một người
dẫn chương trình.
Thậm chí, trong rất nhiều tài liệu nước ngoài, khi phân tích vai trò của ngôn
ngữ cơ thể(body language), còn khẳng định, trong tâm lý học giao tiếp, ngôn ngữ
cơ thể chiếm tới 55% hiệu quả giao tiếp với khán giả truyền hình[41].
Tùy vào từng nội dung chương trình khác nhau, ngôn ngữ cơ thể của một
người dẫn chương trình cũng được biểu đạt theo những chiều hướng khác
nhau. Thông thường có hai cấp độ biểu đạt của ngôn ngữ cơ thể có thể nhận ra
dễ dàng nhất:
+ Biểu lộ hạn chế. Mặc dù ngôn ngữ cơ thể rất quan trọng, nhưng cách thức
biểu đạt và tần xuất thể hiện cũng khác nhau dựa vào nội dung của một chương
trình. Với một chương trình thời sự, người dẫn không thể sử dụng ngôn ngữ cơ
thể như người dẫn chương trình trò chơi truyền hình. Anh ta sẽ phải sử dụng ngôn
ngữ cơ thể ở hình thức tinh vi nhất có thể, những biểu đạt thường dùng nhất của
người dẫn chương trình tin tức là các điệu bộ của đầu, mắt và hai bàn tay.
+ Biểu lộ thoải mái. Với những người dẫn chương trình ở các thể loại khác,
ngôn ngữ cơ thể được biểu đạt tối đa. Đặc biệt là với những chương trình trò chơi,
tọa đàm hay một tạp chí. Một người dẫn thể loại trò chơi tiêu biểu cho phong cách
ngôn ngữ cơ thể phóng khoáng là nghệ sỹ Thanh Bạch. Hầu như các bộ phận
trong cơ thể của anh đều phải hoạt động trong một chương trình.
3.2.5. Giọng nói
Chất giọng, ngữ điệu, kỹ thuật xử lý tiếng nói là những yếu tố tạo nên
một giọng nói tốt trên truyền hình. Cũng tùy vào thể loại, nội dung chương
trình khác nhau mà người dẫn chương trình cần phải có những yếu tố về
giọng nói khác nhau. Một người dẫn tạp chí sẽ không nhất thiết phải xử lý
ngữ điệu quá phức tạp, nếu không, thậm chí anh ta còn bị chê trách là quá
điệu đà. Trong khi đó, với việc dẫn một chương trình trò chơi, hòi hỏi phải
tăng tính gay cấn, hồi hộp, thì người dẫn có khi còn phải rất khéo léo để nhả
câu nhả chữ sao cho khán giả hồi hộp nhất có thể. Hoặc một chương trình tin
tức với tiết tấu nhanh, mạnh, nội dung tin tức phong phú, đầy sức chiến đấu,
thì người dẫn sẽ không thể xuất hiện với giọng nói quá yếu ớt. Căn cứ vào các
yếu tố đó, chúng ta có thể chia đặc trưng về giọng nói thành hai dạng:
+ Linh hoạt mềm mại
Kiểu đặc trưng giọng nói linh hoạt mềm mại thường phù hợp với các
chương trình trò chơi, hay chương trình tọa đàm. Ở đó người dẫn, với phong
cách nói, và thường là, không phụ thuộc vào kịch bản lời dẫn, có thể phát huy
tối đa khả năng xử lý ngôn ngữ lời của mình.
+ Mạnh mẽ truyền cảm
Ngược lại với kiểu đặc trưng giọng nói linh hoạt mềm mại, trong một số
nhóm chương trình khác, người dẫn bắt buộc phải sử dụng ngôn ngữ lời nói
theo những nguyên tắc nhất định. Ví dụ, đối với chương trình tin tức, một
người dẫn cũng được khuyến khích cần xử lý giọng nói linh hoạt, song yêu
cầu đầu tiên vẫn phải là mạnh mẽ truyền cảm. Với đặc trưng trong cách tiếp
cận khán giả, người dẫn chương trình tin tức không có nhiều lợi thế trong việc
thu hút sự chú ý của công chúng như người dẫn chương trình trò chơi, vì vậy,
ngay từ khi xuất hiện, người dẫn chương trình tin tức phải lập tức chiếm giữ
cảm tình của người xem bằng chất giọng mạnh mẽ, truyền cảm của mình.
3.2.6. Văn phong
Những yếu tố đặc trưng về văn phong cũng là một trong những dấu hiệu
hình thức dễ nhận biết nhất để phân biệt người dẫn chương trình thuộc thể
loại này với thể loại khác. Căn cứ những đặc trưng riêng, có thể chia ra 3
dạng văn phong sau đây:
+ Chính luận.
Đây là dạng văn phong bắt buộc sử dụng đối với người dẫn chương trình
tin tức. Xét trên quan điểm thể loại, chương trình tin tức thuộc nhóm thể loại
chính luận, với các đặc trưng chung về ngôn ngữ mang tính chính luận. Là
người dẫn chương trình thì yêu cầu cơ bản nhất đó là khả năng biểu đạt ngôn
ngữ. Người dẫn chương trình tin tức không chỉ là người “phát thanh” nội
dung chương trình mà họ phải là người “truyền tải” tin tức đến đông đảo khán
giả. Họ không chỉ cần nói lưu loát mà còn phải nói “đúng” và nói “trúng”.
Muốn vậy người dẫn chương trình tin tức phải có kiến thức sâu rộng và kinh
nghiệm phong phú. Những người dẫn chương trình tin tức thường phải tiếp
cận những vấn đề liên quan đến nhiều khía cạnh chính trị, khoa học, văn hóa
giáo dục… vì thế họ phải có sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực thì mới có lòng tin
và khả năng điều tiết chương trình, đồng thời ứng phó với mọi tình huống có
thể xảy ra.
+ Phong cách nói.
Văn phong ngôn ngữ lời nói, thường được áp dụng cho các chương trình
trò chơi truyền hình với việc người dẫn hầu như thoát ly khỏi kịch bản lời
dẫn, họ chỉ việc bám sát kết cấu kịch bản của một trò chơi và tung hứng bằng
lời nói với những người chơi để tạo nên những tình huống giao tiếp bất ngờ
cho khán giả.
+ Đa phong cách.
Đó là việc sử dụng kết hợp các dạng phong cách ngôn ngữ khác nhau trong
khi dẫn chương trình. Có thể đó là sự kết hợp phong cách ngôn ngữ chính luận
với phong cách nói, hoặc phong cách ngôn ngữ khoa học với phong cách
nói.v.v…Chẳng hạn, với một tạp chí truyền hình chuyên phan tích về cấu trúc tế
bào, thì người dẫn sẽ hay dùng kết hợp giữa phong cách nói với phong cách ngôn
ngữ khoa học; hoặc là khi dẫn một chương trình tọa đàm, người dẫn sẽ phải sử
dụng kết hợp cả phong cách chính luận và phong cách nói.
Theo cách đó, tác giả đề xuất các khái niệm sau đây, dùng để chỉ những
người dẫn chương trình khác nhau.
4. Một số khái niệm về người dẫn chương trình truyền hình
4.1. Người dẫn chương trình tin tức
Đó là người dẫn và giới thiệu tin tức thời sự phát sóng hàng ngày trong
các bản tin hoặc chương trình thời sự của một đài truyền hình, họ đồng thời
cũng là người biên tập lời dẫn để giới thiệu những thông tin ngắn gọn xúc tích
nhất của một tin tức tới khán giả truyền hình, sau khi người tổ chức sản xuất
đã quyết định lựa chọn tin, bài nào. Người dẫn chương trình có thể là nam hoặc
nữ. Ở các đài lớn, họ thường được coi như gương mặt đại diện cho cả đài. Những
phát ngôn của anh ta, hoặc cô ta phải đạt đến trình độ chuẩn mực cả về ngôn ngữ
và hàm lượng, chất lượng thông tin.
Một người dẫn chương trình tin tức giỏi là người được công chúng tin cậy và
mến mộ thông qua phong cách dẫn dắt, đưa tin, cũng như thông qua chất lượng
biểu đạt cả về nội dung và hình ảnh của tin bài và cả sự xuất hiện của anh ta hoặc
cô ta.
Nội dung của các bản tin thời sự thường khô khan vì thế vai trò của người
dẫn chương trình càng quan trọng hơn trong việc thu hút sự chú ý theo dõi của
khán giả.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, nhà quản lý của kênh truyền hình tin
tức CBS khi tìm Walter Leland Cronkite làm người kế nhiệm cho vị trí dẫn
chương trình thời sự đã đưa ra 4 yêu cầu cơ bản: một là người dẫn chương trình
không những phải có khả năng truyền đạt thông tin mà còn phải có khả năng viết
và biên tập. Hai là có khả năng của một phóng viên khi không lên hình. Ba là
trong những tình huống bất lợi hoặc nguy hiểm vẫn có thể ứng biến để kịp thời
đến hiện trường đưa tin về những vấn đề nóng bỏng đang diễn ra như hội nghị cấp
cao hay bầu cử tổng thống. Cuối cùng là yêu cầu về phẩm chất đạo đức cũng như
tác phong của người dẫn chương trình vì họ chính là hình ảnh đại diện rõ nét nhất
của ban thời sự CBS nói riêng cũng như hình ảnh của CBS nói chung[33].
Dựa vào bối cảnh ghi hình; phương thức xuất hiện của người dẫn; trang
phục; ngôn ngữ cơ thể; giọng nói, cách biểu đạt có thể chia thành 2 dạng dẫn
chương trình thời sự:
+ Người dẫn thời sự hiện trường.
Người dẫn thời sự hiện trường thường là một phóng viên, cũng có khi là một
người dẫn bản tin, hoặc thậm chí là một cộng tác viên, thông tin viên. Họ xuất
hiện tại hiện trường của sự kiện và trực tiếp mô tả diễn biến của sự kiện đó, cũng
như những quan sát mà anh ta ghi nhận được và truyền trực tiếp trên sóng.
Ở các nước có nền công nghiệp truyền hình phát triển mạnh, những người
dẫn thời sự hiện trường rất được khuyến khích làm việc, vì họ là người chứng kiến
ngay tại chỗ sự kiện đó, do vậy tính chân thật, khách quan của thông tin được thể
hiện ở mức độ rất cao.
Tại Việt nam, họ thường được gọi là phóng viên dẫn hiện trường, hoặc
người dẫn hiện trường.
+ Người dẫn chương trình tin tức tại trường quay: họ thường chịu áp lực rất
cao về khối lượng công việc và sức ép về mặt thời gian. Bình tĩnh và phản xạ
nhanh là những yêu cầu cần thiết đối với họ.
Ở các nước có ngành truyền hình phát triển, những nhà lãnh đạo của đài
truyền hình thường thích sử dụng người dẫn chương trình tin tức là những người
có kinh nghiệm, nhằm đạt được sự tin tưởng của công chúng truyền hình. Người
dẫn bản tin nhất thiết phải được trang bị một tấm bằng Cử nhân Báo chí, hoặc
phải được trưởng thành từ những vị trí trong dây chuyền sản xuất chương trình tin
tức. Với những đài truyền hình ở Mỹ hay Anh, những người dẫn chương trình tin
tức được trả một mức lương rất cao và vị trí của họ được coi là niềm mơ ước của
nhiều phóng viên.
4.2. Người dẫn chương trình tọa đàm
Hiện nay ở Đài truyền hình Việt Nam, cách dùng thuật ngữ người dẫn
chương trình giao lưu- gặp gỡ truyền hình được dùng phổ biến, và thậm chí, nó
còn được đặt tên cho một giải thưởng trong cuộc bình chọn hàng năm được Tạp
chí Truyền hình Việt Nam tổ chức.
Trong luận văn về Ngôn ngữ của người dẫn chương trình truyền hình, tác
giả Lê Thị Phong Lan đề xuất khái niệm: “Các chương trình giao lưu – gặp gỡ
trên truyền hình là dạng chương trình mà người dẫn- đại diện cho đài truyền hình
trò chuyện, phỏng vấn khách mời nhằm tạo ra một sản phẩm thông tin[…] vai trò
của người dẫn chương trình rất quan trọng, được xem như người chủ của buổi trò
chuyện…”[17, tr.46].
Theo tác giả luận văn này cách gọi: chương trình giao lưu- gặp gỡ truyền
hình, bản thân ý nghĩa của nó vừa quá rộng, lại mơ hồ trong xác định đối tượng.
Thử hỏi có một chương trình nào mà không có yếu tố giao lưu trong đó ? Và nếu
không gặp gỡ thì làm sao có thể thực hiện được bất kỳ một chương trình truyền
hình nào !?
Cũng với nội hàm như tác giả Phong Lan đã đưa ra, tác giả luận văn này xin
đề xuất cách gọi ngắn gọn, đó là : Thể loại chương trình tọa đàm. Gắn với thể loại
này là khái niệm: Người dẫn chương trình tọa đàm
Khi xem xét đưa ra khái niệm này, tác giả luận văn cũng thấy tương đồng với
cách gọi người dẫn các chương trình talk show tại các nước có nền truyền hình
phát triển như Anh, Mỹ, Canada…Tại Mỹ, hệ thống truyền hình CBS, CNN,
NBC, CNBC…đều gọi những người thực hiện và dẫn dắt những chương trình talk
show là Talk show host(người chủ trì chương trình trò chuyện).
Có nhiều dạng tọa đàm khác nhau tùy vào số lượng khách mời cũng như
hình thức cuộc trò chuyện. Ví dụ: đối thoại, hay diễn đàn…
Một người dẫn chương trình tọa đàm thường là người chịu trách nhiệm trong
việc hình thành đường dây kịch bản. Anh ta cũng có thể đảm đương nhiều công
việc khác trong quy trình sản xuất. Thông thường, đó phải là một người có nhiều
kinh nghiệm, khả năng phân tích, đánh giá vấn đề tốt, đặc biệt với những chương
trình nói về những lĩnh vực chuyên môn sâu, thì người dẫn phải là người rất am
hiểu lĩnh vực đó để có thể đưa ra những câu hỏi thông minh, sắc sảo. Đôi khi các
đài truyền hình có thể thuê những chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan làm
người dẫn cho các chương trình tọa đàm như vậy.
Bằng vũ khí là những câu hỏi, người dẫn chương trình tọa đàm giỏi có thể
điều khiển cuộc trò chuyện theo ý đồ mà chương trình đề ra để khách mời thể hiện
quan điểm của mình trước các hiện tượng xã hội. Khác với người dẫn tin tức,
người dẫn tọa đàm thể hiện năng lực của mình thông qua những câu hỏi và khả
năng kiểm soát tình thế so với khách mời. Khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, khả
năng phán đoán và xử lý tình huống mau lẹ là đặc trưng nổi trội của người dẫn tọa
đàm. Thông thường những nhà báo giàu kinh nghiệm sẽ là người được giao trọng
trách điều hành các chương trình tọa đàm.
4.3. Người dẫn chương trình trò chơi
Thể loại chương trình trò chơi truyền hình từ khi xuất hiện ở Việt Nam đã
nhận được sự quan tâm đặc biệt của khán giả vốn lâu nay chưa được thưởng thức
những chương trình trẻ trung, sôi động như thế. Đặc trưng giải trí là yếu tố chi
phối toàn bộ nội dung, hình thức, kết cấu của một chương trình. Chính vì vậy,
người dẫn chương trò chơi giỏi phải là người biết cách lôi cuốn khán giả hòa mình
vào không khí của chương trình. Những yếu tố kỹ năng cần thiết của một người
dẫn trò chơi là hoạt bát, xử lý tình huống nhanh; cách xứ lý ngôn ngữ cơ thể tốt;
duyên dáng và gần gũi. Chính vì thế, trong thể loại chương trình trò chơi truyền
hình, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều người dẫn chương trình là các nghệ sỹ,
diễn viên…
Có hai dạng trò chơi truyền hình thường gặp, đó là trò chơi vận động và trò
chơi kiến thức. Tùy vào dạng trò chơi nào mà có những yêu cầu khác nhau về
người dẫn. Với một chương trình trò chơi kiến thức, thì yếu tố duyên dáng, thông
minh là quan trọng, nhưng với một chương trình trò chơi vận động thì khả năng
hoạt náo, khuấy động và gần gũi của người dẫn sẽ có thể khiến cả trường quay
cùng tham gia cuộc chơi.
4.4. Người dẫn chương trình tạp chí
Hiện nay ở Việt Nam, thể loại chương trình tạp chí truyền hình không có sức
lan tỏa mạnh mẽ như các thể loại khác. Tại các đài truyền hình các chương trình
tạp chí tương đối nghèo nàn về chất lượng. Tuy nhiên, nếu phát huy đúng khả
năng của mình, các chương trình tạp chí sẽ có thế mạnh riêng mà khó có thể loại
nào theo kịp, đó là khả năng phân tích tập trung và chuyên sâu vào những lĩnh vực
đặc thù. Chẳng hạn như một tạp chí chuyên sâu về công nghệ hay đời sống tự
nhiên của các loài.v.v… Ở thể loại này, người dẫn chương trình dường như phải
là một chuyên gia thực sự trong lĩnh vực của mình. Sự xuất hiện của người dẫn
chương trình cũng sẽ khiến cho chương trình đó trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
Người dẫn trong thể loại này thường được đòi hỏi phải là một người duyên dáng,
tin cậy.
Chương 2
PHẨM CHẤT, KỸ NĂNG VÀ YÊU CẦU CỦA NGƯỜI DẪN
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
1. Các yêu cầu cơ bản của người dẫn chương trình truyền hình
1.1. Có thể nói, những yêu cầu cơ bản đối với một người dẫn chương
trình truyền hình là những đòi hỏi tối thiểu để đảm bảo rằng, một người có
khả năng thực hiện công việc dẫn chương trình truyền hình. Việc trở thành
một người dẫn chương trình tài năng và được khán giả yêu thích, thì bản thân
mỗi người phải được trang bị những kỹ năng và phẩm chất cao hơn nhiều.
Những yêu cầu cơ bản chỉ là điều kiện cần cho hoạt động dẫn chương trình
mà thôi.
Những điều kiện cần, bao gồm những yêu cầu về ngoại hình, giọng nói,
bản lĩnh sân khấu và nghệ thuật diễn cảm.
Trong một số tài liệu nước ngoài chuyên đào tạo các chức danh cho công
việc của truyền hình, như người dẫn tin tức(new anchor), người điều hành
cuộc tọa đàm(talk show host), người điều hành trò chơi(game show host), các
cơ sở đào tạo và các đài truyền hình luôn yêu cầu ở những người này phải
đảm bảo những yếu tố như: Phải được đào tạo chuyên nghiệp về báo chí; khả
năng xử lý tình huống tốt; biết xử lý ngữ âm, ngữ điệu thành thạo; có một vẻ
bề ngoài lịch thiệp. Ngoài ra một số đài truyền hình khác sẽ yêu cầu đó là
người có hình thức dễ mến, có sự hiểu biết rộng về các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội…
Thông thường, tại các hệ thống truyền hình của Anh hay Mỹ, những
người dẫn chương trình tin tức hoặc tọa đàm sẽ phải bắt đầu làm việc trong
một đài truyền hình ở vị trí của một phóng viên, sau khi có đủ thời gian và
kinh nghiệm ở vị trí phóng viên, nếu đáp ứng được các yêu cầu trong công
việc của người dẫn, thì anh ta mới bắt đầu được sắp xếp để thực hiện nhiệm
vụ điều hành, dẫn dắt các chương trình.
Như đã nói ở trên, khi nghiên cứu về đội ngũ người dẫn chương trình
truyền hình ở Việt Nam, tác giả đưa ra bộ tiêu chí cơ bản về yêu cầu của
người dẫn chương trình nhằm mục đích tổng kết những yêu cầu tối thiểu nhất
để một người có thể đảm nhận công việc dẫn chương trình. Trên cơ sở đó mới
nghiên cứu sâu hơn về khả năng đáp ứng công việc của họ; phân tích về thực
trạng chất lượng của đội ngũ người dẫn chương trình.
1.2. Những yêu cầu cơ bản
Ngoại hình
Hình thức là yếu tố đầu tiên mà khán giả tiếp xúc với một người dẫn chương
trình. Một người dẫn chương trình được đánh giá cao không nhất thiết phải là một
người đẹp, nhưng nhất thiết phải là một người có duyên và ăn hình.
Ngoại hình được tạo bởi các yếu tố về hình thể, gương mặt và trang
phục, cũng như cách trang điểm. Nếu có bất kỳ một khiếm khuyết nào thuộc
về ngoại hình của người dẫn, thì nó phải được bù lấp bằng những thế mạnh
khác, nếu không, khán giả sẽ không thể nào kiên nhẫn để xem một chương
trình với sự xuất hiện của một người dẫn vừa xấu xí vừa không có khả năng
thu hút.
Kết quả khảo sát của tác giả luận văn, cho thấy, đa phần những người
dẫn chương trình không đề cao yếu tố ngoại hình, khi chỉ có 15,6% số người
được hỏi chấm điểm 5, điểm cao nhất trong thang khảo sát. Dù vậy, điều đó
cũng không khẳng định được là khán giả cũng nghĩ như họ. 62,5% số người
dẫn chương trình được hỏi đã chấm điểm 4 cho yếu tố hình thức, tức là sự
quan tâm của họ đối với yếu tố hình thức cũng không phải là nhỏ.
Trên thực tế, rất nhiều chương trình ở VTV, VTC, HTV và các đài truyền
hình khác trong cả nước vẫn phải chạy đua với nhau để mời những gương mặt
diễn viên, người mẫu, hoa hậu tham gia dẫn chương trình. Bởi ai cũng hiểu là
ngoại hình có sức thu hút rất lớn đối với khán giả. Chúng ta vẫn thấy hoa hậu
Ngọc Khanh, á hậu Ngọc Oanh, á khôi Thu Hương.v.v…tham gia dẫn nhiều
chương trình của các đài truyền hình. Trong các cuộc thi tìm kiếm gương mặt
dẫn chương trình mới của một số đài truyền, yếu tố hình thức vẫn được coi
trọng và là một trong những tiêu chí chấm điểm quan trọng của các nhà đài.
Ở nhiều đài truyền hình tại Việt Nam hiện nay, người ta chưa thực sự coi
trọng yếu tố hình thức của một người dẫn chương trình. Chỉ một số ít đài cấp
quốc gia đã ban hành các quy định về ngoại hình cũng như trang phục, trang
điểm của người dẫn chương trình. Còn hầu hết các đài địa phương chưa có
quy định riêng về trang phục cho người dẫn, mà chủ yếu do người dẫn
chương trình tự chuẩn bị dựa trên ý thức về mức độ phù hợp đối với mỗi
chương trình khác nhau. Việc trang điểm cho người dẫn ở các đài truyền hình
địa phương cũng như vậy, hầu như rất ít đài địa phương có được những nhân
viên trang điểm cho người dẫn. Người dẫn chương trình phải tự mình trang
điểm hoặc thuê những nhân viên trang điểm bên ngoài. Điều này khiến cho
gương mặt của người dẫn đôi khi không phù hợp với thiết kế ánh sáng và góc
quay.v.v…
Giọng nói
Có thể bạn không xinh đẹp, nhưng nếu là một người dẫn chương trình,
bạn phải có giọng nói tốt. Trong một số tài liệu giảng dạy, người ta nói đến
cụm từ giọng nói ăn míc, để ám chỉ một chất giọng tốt dễ nghe, truyền cảm,
rõ, chuẩn, không bị đớt hay ngọng, không nói pha nhiều giọng địa phương...
Yêu cầu về giọng nói đôi khi có tính quyết định cho việc một người dẫn
có được lên hình hay không. Xét cho cùng, yêu cầu về giọng nói được tạo bởi
2 yếu tố, một là chất giọng(yếu tố phẩm chất) và hai là kỹ thuật đọc, nói(yếu
tố kỹ năng). Chỉ khi nào đáp ứng đầy đủ hai yếu tố này, thì người dẫn mới được coi
là đạt yêu cầu về giọng nói. Có nhiều người chất giọng rất tốt, nhưng khi đọc hay nói
trước máy thu hình thì không đạt yêu cầu. Nguyên nhân là do người đó không đủ tự
tin và kỹ thuật để đọc những đoạn văn bản dài. Luyện tập là giải pháp giúp bạn có
được kỹ thuật đọc tốt. Tuy nhiên, nếu như không có chất giọng tốt, thì mọi sự cố
gắng của bạn sẽ chỉ trở nên lố bịch mà thôi. Nó cũng giống như trường hợp học hát
của những người mong muốn trở thành ca sĩ vậy. Những người không có tố chất về
giọng sẽ không bao giờ được lựa chọn để vào khoa thanh nhạc.
Học theo những người dẫn các chương trình truyền hình đi trước là cách đơn
giản nhất để luyện kỹ thuật nói, đọc. Cần phải luyện hàng ngày để có thể đạt được
yêu cầu về giọng nói cho việc dẫn chương trình.
Kết quả khảo sát ở 224 người dẫn chương trình truyền hình trong cả nước, cho
thấy, hơn 28% số người được hỏi chấm điểm cao nhất(5 điểm) cho yêu cầu về giọng
nói, cao gần gấp đôi so với yêu cầu về ngoại hình. 62,5% số người chấm điểm 4.
Bản lĩnh sân khấu
Bản lĩnh sân khấu được tạo bởi nhiều yếu tố bao gồm cả sự tự tin, hiểu biết, khả
năng chiếm lĩnh sân khấu, sự linh hoạt .v.v…Một người dẫn chương trình được coi
là có bản lĩnh sân khấu, khi anh ta có được sự thể hiện nhẹ nhàng, tự nhiên và duyên
dáng trên sân khấu hay trước camera. Đối với những người này, thông thường họ sở
hữu đầy đủ tất cả các phẩm chất và kỹ năng cần thiết của một người thường xuất hiện
trước công chúng. Một người dẫn chương trình có bản lĩnh sân khấu, thông thường
là đã tạo dựng được một phong cách riêng biệt. Có đến 78% số người được hỏi đã
khẳng định yêu cầu về bản lĩnh sân khâu là yếu tố quan trọng nhất trong 4 yếu tố
được khảo sát.
Để có thể đạt được các yêu cầu về bản lĩnh sân khấu, người dẫn chương trình
ngoài những yêu cầu về ngoại hình cũng như giọng nói, thì còn phải biết làm chủ
ngôn ngữ, làm chủ kịch bản, làm chủ cảm xúc và trên hết là làm chủ sân khấu.
Nghệ thuật diễn cảm
Nghệ thuật diễn cảm là cách biểu hiện thái độ, tình cảm của người dẫn trước
công chúng. Một người dẫn chương trình được coi là đạt được yêu cầu này, khi anh
ta được khán giả đánh giá là có duyên. Khác với nghệ thuật diễn xuất của diễn viên,
nghệ thuật diễn cảm của người dẫn chương trình đòi hỏi anh ta phải biểu lộ thái độ,
tình cảm một cách chân thành, đúng mực, không quá khuôn phép nhưng cũng
không được ủy mị.
Nghệ thuật diễn cảm phụ thuộc phần nhiều vào nội dung của chương trình mà
người dẫn thể hiện. Với một chương trình giải trí với phong cách hài hước, trào lộng,
thì người dẫn cũng phải tạo được một phong cách dí dỏm vui tươi. Trong khi đó, với
một chương trình chính luận như bản tin thời sự, một người dẫn phải luôn biết kiềm
chế cảm xúc của mình để thể hiện cho được sự khách quan, trung thực trong cách
đưa tin. Tuy nhiên, nếu như đứng trước những sự kiện hoặc tin tức gây xúc động
mạnh, thì người dẫn cần phải biết biểu lộ trạng huống cung bậc tình cảm của mình để
khán giả có thể cảm nhận thấy ở đó sự chia sẻ.
Nghệ thuật diễn cảm đòi hỏi người dẫn chương trình phải đáp ứng các yêu cầu
về giọng nói, ngôn ngữ cơ thể, sự duyên dáng, và khả năng xử lý tình huống tốt.
Trong khảo sát của tác giả luận văn, có hơn 53% số người được hỏi đã chấm
điểm 5 cho yêu cầu về nghệ thuật diễn cảm của người dẫn chương trình, chỉ xếp thứ
hai sau yêu cầu về bản lĩnh sân khấu.
2. Những phẩm chất của người dẫn chương trình truyền hình
2.1. Thế nào là phẩm chất của người dẫn chương trình truyền hình
Khi nói đến phẩm chất tức là chúng ta đã có sự phân biệt rạch ròi giữa sự
vật này với sự vật khác trong tương quan so sánh giữa chúng. Một hàng hóa
được phân biệt phẩm chất dựa trên những yếu tố như chất lượng, độ bền, giá
cả.v.v…Một người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh sẽ đòi hỏi những
phẩm chất hoàn toàn khác với người hoạt động nghệ thuật. Như vậy có thể
nói, phẩm chất nghĩa là những đặc trưng riêng của đối tượng giúp phân biệt
đối tượng đó với đối tượng khác.
Đối với một người dẫn chương trình truyền hình càng phải đòi hỏi
những phẩm chất riêng. Những yếu tố như: sự bình tĩnh, tự tin; sáng tạo;
nhanh nhẹn; hiểu biết; đạo đức; duyên dáng là những đặc trưng để có thể phân
biệt một người dẫn chương trình giỏi.
Tất nhiên để có được những phẩm chất đó, một người dẫn chương trình
cần phải được rèn luyện và thử thách nhiều.
Kết quả khảo sát của tác giả luận văn về mức độ quan trọng của các
phẩm chất trên đối với người dẫn chương trình truyền hình cho thấy: được
đánh giá cao nhất là phẩm chất bình tĩnh, thứ hai là hiểu biết, thứ ba là sáng
tạo, thứ tư là nhanh nhẹn và đạo đức, thứ năm là duyên dáng.
2.2. Những phẩm chất cơ bản
Bình tĩnh, tự tin
Rất nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội đòi hỏi nhân viên phải có
được phẩm chất này. Thế nhưng khi bạn đã là một người dẫn chương trình
truyền hình thì yêu cầu này được đặt ra cao hơn gấp bội. Chúng ta hãy hình
dung, một chương trình tin tức được phát sóng trực tiếp với những tin tức cập
nhật hàng giờ, những rủi ro trong quá trình lên sóng là rất lớn. Nếu như một
người dẫn chương trình không đảm bảo sự tự tin và khả năng xử lý các tình
huống phát sinh một cách hoàn hảo thì rất có thể sẽ khiến cho chương trình
trở nên thật thảm hại.
Sự bình tĩnh, tự tin của người dẫn có được, ngoài những khả năng thiên
phú, thì phải trải qua sự nỗ lực tự rèn luyện không mệt mỏi. Bạn chỉ có thể tự
tin khi mình có đầy đủ các phẩm chất và kỹ năng của một người dẫn chương
trình giỏi, và bạn sẽ bình tĩnh khi biết rõ ràng tất cả mọi yếu tố trong quy trình
làm việc, những khả năng, những rủi ro có thể xảy ra và bạn tính toán được
khả năng xử lý nó như thế nào.
Trong rất nhiều trường hợp, chúng ta nhận thấy những người dẫn chương
trình tỏ ra lúng túng khi giới thiệu tin tức, đặc biệt là những bản tin được phát
từ lúc sáng sớm. Có nhiều lý do biện hộ cho điều này, nhưng việc không
chuẩn bị chu đáo kịch bản dẫn, hoặc chưa hiểu hết nội dung tin tức là những
lý do chính lý giải cho sự lúng túng đó.
Trong khảo sát mà tác giả luận văn thăm dò ở 224 người dẫn chương
trình truyền hình trong cả nước, thì có tới 168 người cho điểm 5, điểm cao
nhất trong thang điểm khảo sát, cho yếu tố bình tĩnh, tự tin của người dẫn,
chiếm 75% số người được hỏi, 25% còn lại cho điểm 4.
Rõ ràng, phẩm chất bình tĩnh, tự tin luôn được đánh giá cao bởi chính
những người đang hàng ngày trực tiếp làm công việc dẫn các chương trình
truyền hình. Khi không đủ tự tin thì người dẫn không thể làm chủ không gian
trên sóng của mình và có nguy cơ, nhẹ nhất, thì khiến cho câu chuyện mà anh
ta đang giới thiệu trở nên nhạt nhẽo, còn nặng hơn, có thể khiến cho chương
trình bị vỡ vụn vì những phỏng vấn mơ hồ, lan man hoặc thậm chí bị khách
mời phản ứng. Những yếu tố để tạo nên sự bình tĩnh tự tin của người dẫn chỉ
có thể được hình thành bởi thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm, sự hiểu
biết của cá nhân mỗi người. Một khi có đủ sự bình tĩnh, tự tin, thì một người
dẫn chương trình truyền hình hoàn toàn có thể làm chủ chương trình của mình
theo một kết cấu đã được định hình với nội dung xuyên suốt. Người dẫn hoàn
toàn có thể thoát ly khỏi kịch bản để câu chuyện trở nên logic, mạch lạc và
cuốn hút khán giả hơn, nhưng vẫn có thể đảm bảo rằng điều đó không đi
chệch nội dung định hướng của chương trình.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự bình tĩnh, tự tin của một người dẫn
chương trình truyền hình, ngoài yếu tố thuộc về cá nhân, chẳng hạn các vấn
đề về kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, mức độ chuyên nghiệp của ê kíp, sự hứng
thú của khách mời, thậm chí cả trang phục và cách trang điểm.v.v…Chính vì
vậy, việc quán xuyến hầu như toàn bộ các công đoạn trong một quy trình sản
xuất chương trình sẽ khiến cho người dẫn có thể chủ động nắm bắt các rủi ro
và đề ra các giải pháp cho phù hợp. Tất nhiên phải hiểu quán xuyến ở đây
không phải là làm thay việc, làm hộ, mà chỉ sự hiểu biết của người dẫn đối
với các công việc có liên quan để kiểm sóat chúng.
Trên thực tế, từ kết quả khảo sát mà tác giả luận văn tiến hành, thông qua
công cụ phân tích kết quả khảo sát TV technique investigation system (Công
cụ phân tích kết quả khảo sát do Nguyễn Tiến Hưng-APTECH Bách Khoa
phát triển dựa trên bộ mã nguồn mở thuộc quản lý của WAMPSERVER ) cho
thấy, tỷ lệ số người lựa chọn thang điểm cao nhất cho phẩm chất bình tĩnh, tự
tin là cao nhất trong số 6 phẩm chất được khảo sát, chứng tỏ, yếu tố này rất
được đề cao đối với mỗi người dẫn. Các phẩm chất khác có tỷ lệ lựa chọn
thang điểm cao nhất(5 điểm) thấp hơn rất nhiều, chẳng hạn, chỉ có 56% số
người được hỏi chọn phẩm chất sáng tạo; 34% chọn phẩm chất nhanh nhẹn;
65% chọn hiểu biết, kiến thức nền; 25% chọn duyên dáng; và 34% chọn
đạo đức nghề nghiệp.
Hiểu biết, kiến thức nền tảng
Không có hiểu biết và một phông kiến thức nền tảng tốt thì bất kỳ ai
cũng khó có thể hoàn thành một công việc cho dù nó đơn giản nhất. Phẩm
chất hiểu biết, kiến thức nền tảng được đánh giá cao thứ hai chỉ sau phẩm chất
bình tĩnh, tự tin trong kết quả khảo sát của tác giả luận văn.
Sự hiểu biết và kiến thức nền tảng chỉ có thể được trang bị bằng nỗ lực
cá nhân của mỗi người. Đó là cách anh ta đọc sách báo mỗi ngày, đó là cách
anh ta nhìn các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội bằng con mắt biện
chứng. Sự hiểu biết là nền tảng của sự tự tin, và nó cũng là bệ phóng cho sự sáng tạo
ở mỗi con người. Một người ít hiểu biết và không có phông kiến thức tốt thì khó có
thể đạt được sự sáng tạo trong nghề nghiệp. Điều đó đặc biệt đúng với người chịu
trách nhiệm dẫn dắt, điều hành một chương trình truyền hình.
Bạn hãy tưởng tượng, nếu bạn đang tiến hành một cuộc tọa đàm với Bộ trưởng
Ngoại giao hay một chuyên gia về đối ngoại, nội dung của cuộc tọa đàm đó là một
chủ đề về thế giới trong thế kỷ 21. Bạn sẽ làm gì, nói gì khi mà bạn không có được
sự hiểu biết về rất nhiều lĩnh vực từ vi mô đến vĩ mô, từ văn hóa nghệ thuật đến quân
sự, từ kinh tế đến ngoại giao và thậm chí cả địa lý…? Đó là lý do vì sao nhiều người
dẫn chương trình tin tức hay tọa đàm ở các chương trình truyền hình nước ngoài,
thường được chọn là những người trung niên trở lên, với một phông kiến thức dồi
dào, một khả năng phân tích thấu đáo.
Sự hiểu biết chỉ có thể đến khi anh ta đạt được sự trải nghiệm, có thể là trải
nghiệm trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua sách vở, báo chí, bằng những khi tư liệu
khổng lồ trong các thư viện. Sự hiểu biết sẽ không đến với những người chấp nhận
(hoặc bằng lòng) với nấc thang nghề nghiệp.
Vẫn có hơn 6% số người được hỏi chấm điểm 3, tức là điểm trung bình, cho
phẩm chất hiểu biết của một người dẫn chương trình truyền hình, số còn lại chấm
điểm 4 và 5. Nghĩa là vẫn còn một bộ phận nhỏ những người dẫn chương trình
truyền hình chưa coi trọng yếu tố này. Nhưng may mắn thay đó lại là những người
hầu như mới vào nghề và chưa được đào tạo báo chí một cách bài bản.
Sáng tạo
Công việc của một người dẫn chương trình truyền hình có thể coi là công
việc sáng tạo. Điều đó thể hiện ở chỗ, anh ta phải xây dựng kịch bản, ít ra là
kịch bản lời dẫn. Nó còn thể hiện ở chỗ anh ta phải là người có khả năng tái
tạo và hình thành một câu chuyện có sức cuốn hút khán giả. Nếu không có
khả năng sáng tạo, thì chương trình của anh ta sẽ vô cùng nhợt nhạt và khó có
thể lôi kéo khán giả ngồi trước máy thu hình.
Sáng tạo của người dẫn chương trình truyền hình thể hiện ở nội dung
kịch bản, câu hỏi mà họ đưa ra, trong cách hành ngôn, trong trang phục,
trong. Đỉnh cao nhất, sự sáng tạo phải được toát ra từ mọi cử chỉ, hành vi, thái
độ, phản ứng, diện mạo của người dẫn. Điều này rất quan trọng. Vì chỉ có một
người đầy sáng tạo mới có thể khiến cho khách mời, khán giả cùng hòa nhịp
và bị lôi cuốn vào những suy nghĩ tâm tư, với những đam mê của mình.
Trong khảo sát của tác giả luận văn, yếu tố sáng tạo được đánh giá cao
thứ ba chỉ sau phẩm chất bình tĩnh tự tin và hiểu biết. Có 56% số người được
hỏi, tương đương 126 người chấm điểm 5 và 37% tương đương 84 người
chấm điểm 4 cho yếu tố này.
Để có được phẩm chất sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, người dẫn
chương trình phải đạt được một trình độ cao. Nghĩa là anh ta đã phải trải qua
và trả giá cho những sai lầm(có thể chấp nhận được) để rồi hoàn thiện mình
và rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá cho hoạt động dẫn chương trình.
Chính những bài học đó tạo nên phẩm chất sáng tạo trong một người dẫn.
Thật khó khi một người dẫn chương trình mới vào nghề, cho dù anh ta có tư
chất sáng tạo, đạt được sự sáng tạo trong công việc. Từ điển tiếng Việt định
nghĩa: sáng tạo nghĩa là tìm thấy và làm nên cái mới. Từ đó suy ra, một người
chưa từng biết đến cái cũ thì khó mà tạo nên cái mới.
“Sự sáng tạo riêng của mỗi người dẫn chương trình khi được công chúng chấp
nhận và yêu mến, đó chính là cá tính riêng, rõ ràng, mới mẻ của người dẫn chương
trình.”[42] Sự sáng tạo đạt đến trình độcao đãtạo nên cátính của người dẫn.
Một tư duy hẹp hòi, bảo thủ, một nền tảng tri thức ít ỏi là những kẻ thù của sáng
tạo. Một người dẫn tốt nhất không bao giờ để cho những điều đó làm hạn chế đi khả
năng sáng tạo.
Nhanh nhẹn
Yếu tố Nhanh nhẹn, và đạo đức nghề nghiệp cùng được 34% số người
được hỏi cho thang điểm 5.
Trong một chương trình truyền hình, đặc biệt khi đó là khi thực hiện
truyền hình trực tiếp, sự nhanh nhạy của người dẫn đôi khi có thể cứu cả một
chương trình khỏi sự đổ vỡ khó tránh. Luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Phong
Lan, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn năm 2006 ghi nhận một ví
dụ về việc xử lý tình huống rất nhanh chóng của người dẫn chương trình
Người xây tổ ấm Kim Ngân.
Đó là chương trình giao lưu(đoạt giải Vàng Liên hoan Truyền hình
toàn quốc năm 2004), lúc giao lưu, người khách mà Kim Ngân
định đưa lên đầu, hứng chí đã trót uống rượu và say mèm. Kim
Ngân đã nhanh chóng đảo kịch bản, đưa anh ta xuống cuối cùng.
Trong lúc Kim Ngân trò chuyện với 2 nhân vật khác thì các trợ lý
lo đi giải rượu cho anh ta.[17, tr.105]
Sự nhanh nhẹn luôn đi cùng với sự sáng tạo. Chỉ có sáng tạo mới có thể
đưa ra những giải pháp nhanh chóng nhất, bất ngờ nhất. Và, sự nhanh nhẹn
cũng phải xuất phát từ sự hiểu biết. Nếu một người nhanh nhẹn mà không có
hiểu biết chắc chắn về những quyết định của mình, thì rất có thể khiến cho
chương trình mà anh ta dẫn dắt đi vào ngõ cụt. Những thể loại chương trình
có yêu cầu cao về sự nhanh nhẹn của người dẫn là các bản tin phát sóng trực
tiếp, các chương trình tọa đàm và trò chơi. Trong các chương trình này, người
dẫn luôn phải đón đầu các diễn biến của mạch câu chuyện hoặc các tình
huống của cuộc chơi để điều khiển chúng đi theo đúng mạch kịch bản. Trong
trường hợp gặp phải những sự cố như ví dụ ở trên, người dẫn không có sự lựa
chọn nào khác là phải quyền biến. Như người lính đã ra trận, anh ta có toàn
quyền trong trận đánh, chỉ duy nhất một điều, phần thắng trong cuộc chiến đó
phải thuộc về anh ta. Phương châm Dĩ bất biến ứng vạn biến tỏ ra rất có hiệu
quả đối với những chương trình thuyền hình trực tiếp, lúc này, vai trò của
người dẫn cực kỳ quan trọng.
Điều gì có thể ảnh hưởng đến phẩm chất nhanh nhẹn của người dẫn ? Đó
chỉ có thể là sự thụ động. Nếu như một người dẫn lâm vào thế thụ
động(không phải bị động) thì chắc đến 80% chương trình của anh ta không
thể thu hút được khán giả.
Đạo đức nghề nghiệp
Thật bất ngờ khi kết quả khảo sát của tác giả luận văn về phẩm chất này,
cho thấy, chỉ có 34% số người dẫn chương trình được hỏi đề cao yếu tố đạo
đức nghề nghiệp. Thậm chí có đến 9% số người được hỏi đã chấm điểm 2 cho
yếu tố đạo đức nghề nghiệp và 12% chấm điểm 3.
Nếu như nghĩ rằng phẩm chất đạo đức là không quan trọng thì rất có thể
những chương trình truyền hình sẽ ngày càng xa rời ý nghĩa nhân văn, và đến
một lúc nào đó, chúng ta sẽ chỉ bắt gặp các chương trình giải trí hay thông tin
thuần túy, mà không còn thấy bóng dáng của tính định hướng, hay tính nhân
văn trong các tác phẩm truyền hình nữa.
Đạo đức nghề nghiệp của một người dẫn chương trình có những biểu
hiện hoàn toàn khác với đạo đức nhà báo nói chung. Với tư cách là người tiếp
cận trực tiếp với quần chúng nhân dân, với đời sống xã hội, một phóng viên
hay một nhà báo cần thể hiện đạo đức của mình thông qua sự chân thật, khách
quan, sự chia sẻ thông tin. Đó có thể là sự kêu gọi ủng hộ một người nghèo
cần tiền để mổ tim, hay là sự thể hiện quan điểm phản đối các hành động
khủng bố. Nếu như những quan điểm đạo đức đó được thể hiện trong những
tin bài của phóng viên, khi truyền về đài truyền hình, nó không nhận được sự
cảm thông từ người dẫn chương trình(với nền tảng đạo đức được cho là không
quan trọng) thì anh ta(người dẫn) sẽ không thể nào truyền tải được những nội
dung tin tức mà người phóng viên kia muốn gửi gắm. Hay nói cách khác, khả
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final
Luận văn cao học báo chí final

Contenu connexe

Tendances

Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn nataliej4
 
Tư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân
Tư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dânTư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân
Tư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dânLTrng72
 
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...nataliej4
 
Cơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí MinhCơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí MinhVuKirikou
 
Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1
Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1
Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1Trong Quang
 
Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệuPhương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệunguoitinhmenyeu
 
Chương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhChương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhmai_mai_yb
 
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaChương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóale hue
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóa
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóaTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóa
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóaTrần Đức Anh
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayYenPhuong16
 
Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...
Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...
Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Thành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rậpThành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rậpthaodang312
 
Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .
Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .
Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .Nguyễn Bá Quý
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Thành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung HoaThành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung Hoathaodang312
 
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdfVĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdfjackjohn45
 

Tendances (20)

Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
 
Tư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân
Tư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dânTư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân
Tư Tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân
 
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
 
Cơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí MinhCơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở, quá trình hình thành & phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1
Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1
Tư tưởng hcm về đạo đức v2.1
 
Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệuPhương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệu
 
Chương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhChương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinh
 
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaChương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóa
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóaTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóa
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về văn hóa
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Thuốc lá và tác hại của thuốc lá
Thuốc lá và tác hại của thuốc láThuốc lá và tác hại của thuốc lá
Thuốc lá và tác hại của thuốc lá
 
Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...
Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...
Đề tài: Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sài Gòn đáp ứng yêu cầu ...
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Thành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rậpThành tựu văn minh ả rập
Thành tựu văn minh ả rập
 
Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .
Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .
Lựa chọn thiết kế khoa học sư phạm ứng dụng ,nghiên cứu khoa học .
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
 
Thành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung HoaThành tựu văn minh Trung Hoa
Thành tựu văn minh Trung Hoa
 
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdfVĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
 

Similaire à Luận văn cao học báo chí final

VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdf
VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdfVẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdf
VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdfNuioKila
 
[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...
[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...
[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...NuioKila
 
Internship report at computational linguistics center
Internship report at computational linguistics centerInternship report at computational linguistics center
Internship report at computational linguistics centerluanvantrust
 
Luận văn thạc sĩ
Luận văn thạc sĩLuận văn thạc sĩ
Luận văn thạc sĩssuser499fca
 
Luận văn thạc sĩ báo chí.
Luận văn thạc sĩ báo chí.Luận văn thạc sĩ báo chí.
Luận văn thạc sĩ báo chí.ssuser499fca
 
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu Giấy
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu GiấyNhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu Giấy
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu GiấyDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...
Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...
Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
[123doc] su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...
[123doc]   su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...[123doc]   su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...
[123doc] su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...jackjohn45
 
Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011
Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011
Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011Dung Tri
 
Đổi mới giáo dục đại học
Đổi mới giáo dục đại học Đổi mới giáo dục đại học
Đổi mới giáo dục đại học LE The Vinh
 

Similaire à Luận văn cao học báo chí final (20)

VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdf
VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdfVẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdf
VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NƠNG THƠN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6.pdf
 
[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...
[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...
[123doc] - van-de-huong-nghiep-cho-thanh-nien-nong-thon-tren-kenh-truyen-hinh...
 
Kế hoạch truyền thông - IMC plan
Kế hoạch truyền thông - IMC planKế hoạch truyền thông - IMC plan
Kế hoạch truyền thông - IMC plan
 
KẾT CẤU PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
KẾT CẤU PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149KẾT CẤU PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
KẾT CẤU PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
 
Internship report at computational linguistics center
Internship report at computational linguistics centerInternship report at computational linguistics center
Internship report at computational linguistics center
 
Luận văn thạc sĩ
Luận văn thạc sĩLuận văn thạc sĩ
Luận văn thạc sĩ
 
Luận văn thạc sĩ báo chí.
Luận văn thạc sĩ báo chí.Luận văn thạc sĩ báo chí.
Luận văn thạc sĩ báo chí.
 
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu Giấy
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu GiấyNhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu Giấy
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm truyền hình của sinh viên địa bàn quận Cầu Giấy
 
Luận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu Phi
Luận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu PhiLuận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu Phi
Luận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu Phi
 
Luận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu Phi
Luận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu PhiLuận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu Phi
Luận văn: Đào tạo nguồn nhân lực tại Viện Nghiên cứu Châu Phi
 
Bày trình diễn
Bày trình diễnBày trình diễn
Bày trình diễn
 
List 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Đài Truyền Hình, Mới Nhất
List 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Đài Truyền Hình, Mới NhấtList 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Đài Truyền Hình, Mới Nhất
List 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Đài Truyền Hình, Mới Nhất
 
Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...
Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...
Xây dựng chương trình, nội dung môn học kỹ năng mềm tại khoa đào tạo chất lượ...
 
[123doc] su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...
[123doc]   su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...[123doc]   su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...
[123doc] su-menh-cua-dai-hoc-va-vai-tro-cua-giang-vien-trong-mo-hinh-quan-t...
 
Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành địa chất, 9đ
Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành địa chất, 9đXây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành địa chất, 9đ
Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành địa chất, 9đ
 
Đề tài: Xây dựng hệ thống tư vấn tuyển sinh cho đại học Trà Vinh
Đề tài: Xây dựng hệ thống tư vấn tuyển sinh cho đại học Trà VinhĐề tài: Xây dựng hệ thống tư vấn tuyển sinh cho đại học Trà Vinh
Đề tài: Xây dựng hệ thống tư vấn tuyển sinh cho đại học Trà Vinh
 
LV: Hoàn thiện hoạt động cho vay hộ nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội
LV: Hoàn thiện hoạt động cho vay hộ nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội LV: Hoàn thiện hoạt động cho vay hộ nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội
LV: Hoàn thiện hoạt động cho vay hộ nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội
 
Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011
Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011
Báo cáo dạy nghề Việt Nam 2011
 
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đ
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đLuận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đ
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đ
 
Đổi mới giáo dục đại học
Đổi mới giáo dục đại học Đổi mới giáo dục đại học
Đổi mới giáo dục đại học
 

Luận văn cao học báo chí final

  • 1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội và các tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ truyền thông, ngành truyền hình ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hàng loạt kênh truyền hình mới được cấp phép hoạt động[32], những chương trình truyền hình mới đua nhau lên sóng đã làm bức tranh truyền hình ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Cùng với việc các chương trình mới ra đời, số lượng người dẫn chương trình truyền hình cũng tăng lên nhanh chóng. Ngoài lực lượng người dẫn chương trình của các Đài truyền hình, còn có lực lượng người dẫn chương trình là các văn nghệ sỹ, sinh viên các trường Đại học tham gia với tư cách là người dẫn chương trình chuyên nghiệp hoặc cộng tác viên. Điều đó làm cho đội ngũ tham gia vào công việc dẫn chương trình truyền hình ngày càng phong phú[4, tr.238]. Nhiều người dẫn chương trình truyền hình đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong lòng công chúng. Sự đa dạng của người dẫn chương trình cũng là một lý do lôi kéo khán giả đến với các chương trình truyền hình. Trên thực tế, vai trò của người dẫn chương trình truyền hình ngày càng tỏ ra quan trọng khi mà sự phát triển mạnh mẽ của các chương trình truyền hình đang khiến cho khán giả rơi vào càm giác bội thực thông tin. Chỉ có những người dẫn chương trình truyền hình duyên dáng, thông minh, tin cậy và đầy nhiệt huyết mới có thể lôi khán giả đến ngồi trước ti vi. Trong khi đó, hiện nay tại Việt Nam, đội ngũ người dẫn chương trình truyền hình giỏi có thể đếm trên đầu ngón tay[28]. Thiếu nguồn nhân lực cho các vị trí dẫn chương trình đã khiến nhiều chủ nhiệm chương trình ở các đài truyền hình bắt
  • 2. buộc sử dụng phương án thuê những cộng tác viên có chút ít kinh nghiệm và lợi thế thanh sắc để chịu trách nhiệm dẫn các chương trình truyền hình. Thế nhưng, ngay cả những người dẫn chương trình truyền hình thuộc biên chế của các đài vẫn đang còn có quá nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, thì không thể đòi hỏi các cộng tác viên dẫn chương trình có thể đủ sức đảm đương một chương trình dài hơi hàng chục năm được. Tình trạng chương trình chết yểu mà nguyên nhân do thiếu người dẫn chương trình truyền hình tài năng, được đào tạo bài bản không phải xa lạ với khán giả cả nước. Trong khi người dẫn chương trình truyền hình đang còn thiếu thốn trầm trọng như vậy, thì, việc sản xuất chương trình mới vẫn cứ phải liên tục diễn ra. Cho nên chúng ta thấy một người dẫn chương trình truyền hình, với phông kiến thức còn nhiều hạn chế do không được trang bị kỹ năng tốt, vẫn hàng ngày phải xuất hiện trên màn hình mỗi nhà. Người xem truyền hình sẽ không thể nào chấp nhận được một người dẫn chương trình lý giải từ đồng bào là cùng một tế bào của mẹ![49] Hay là một người dẫn chương trình truyền hình trẻ tuổi trong một chương trình truyền hình trực tiếp liên tục phỏng vấn bà Phó chủ tịch nước bằng câu: Xin chị cho biết…[49]. Những hạt sạn đó có thể loại bỏ bớt nếu như chúng ta có được những nền tảng lý luận vững chắc cho hoạt động của người dẫn chương trình truyền hình.[46] Nhu cầu đào tạo nghiệp vụ dẫn chương trình nói chung và dẫn chương trình truyền hình nói riêng đang gia tăng một cách nhanh chóng cũng là cơ sở để chúng ta nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện những nghiên cứu liên quan đến các thuật ngữ chỉ người dẫn chương trình truyền hình, xây dựng các tiêu chí đánh giá kỹ năng, yêu cầu nghề nghiệp của người dẫn chương trình. Nếu khoa học Lý luận báo chí, đặc biệt là Lý luận báo chí truyền hình không nhanh chóng hình thành cho được những nguyên lý căn bản cho hoạt động dẫn chương trình và người dẫn chương trình, thì nguy cơ hổng kiến thức
  • 3. chuyên môn trong đội ngũ những người làm dẫn chương trình ở các đài sẽ gây nên những tác hại không nhỏ. Thậm chí dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm trong hoạt động dẫn chương trình truyền hình, từ đó kéo lùi sự phát triển của lý luận về dẫn chương trình. Việc tổ chức đào tạo người dẫn chương trình chuyên nghiệp cũng cần phải có hệ thống lý luận riêng cho ngành này. Trong xu thế phát triển rất nhanh của nghề dẫn chương trình, nếu cơ sở đào tạo nào nhanh chóng có được hệ thống cơ sở lý luận phục vụ cho công tác đào tạo, thì cơ sở đó sẽ sớm khẳng định được thương hiệu của mình trong xã hội. Như vậy, việc nghiên cứu để xây dựng những tiêu chí về yêu cầu, kỹ năng nghề nghiệp của một người dẫn chương trình truyền hình là yêu cầu tất yếu khách quan, phù hợp với hoạt động lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay của ngành truyền hình, giúp cho việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng của đội ngũ người dẫn chương trình truyền hình ở nước ta, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, phục vụ tốt hơn nhu cầu hưởng thụ giá trị văn hóa của nhân dân ta. Với những lý do trên, tác giả luận văn chọn nội dung: Phẩm chất và kỹ năng cơ bản của người dẫn chương trình truyền hình làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Theo khảo sát còn giới hạn của tác giả Luận văn, cho đến nay, tại Việt Nam, những công trình nghiên cứu trước đây của các nhà khoa học có liên quan đến yêu cầu kỹ năng của người dẫn chương trình truyền hình hầu như không có. Chỉ có một số công trình của các tác giả đi trước, trong một số chương mục có đề cập tới nghề dẫn chương trình truyền hình và người dẫn chương trình truyền hình, thế nhưng, đó mới chỉ là những bài nghiên cứu giới hạn với mức độ khảo sát ở phạm vi nhỏ, chủ yếu là những bài báo được giới thiệu trên các tạp chí thuộc Hội nhà báo Việt Nam, Hội nhà báo TP Hồ Chí
  • 4. Minh hay một số tài liệu in chung trong các tập sách tham khảo về nghề báo nói chung. Trong đó, đáng chú ý có một số tác phẩm sau đây: Luận văn Thạc sĩ truyền thông đại chúng năm 2006 của Lê Thị Phong Lan trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, đề tài Ngôn ngữ của người dẫn chương trình truyền hình do PGS,TS Vũ Quang Hào hướng dẫn. Luận văn phân tích đánh giá các chương trình giao lưu- gặp gỡ truyền hình và vai trò của người dẫn chương trình. Tuy vậy, luận văn này chỉ tiếp cận trong cách thức tổ chức và sử dụng ngôn ngữ của người dẫn chương trình. Nghiên cứu ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cách thể hiện lời nói, điệu bộ, một số yếu tố kỹ năng giao tiếp với người đối thoại của người dẫn trong các chương trình, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ cho người dẫn chương trình. Ngoài ra một số tác phẩm: Những vấn đề của báo chí hiện đại của tác giả Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, in năm 2007, trong đó có bài: Lời dẫn và người dẫn chương trình, cũng nêu lên một số yêu cầu chung cho người dẫn chương trình; phân tích lời dẫn và một số ý kiến về người dẫn chương trình truyền hình ở Việt Nam hiện nay. Bài viết cũng chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết các yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp của một người dẫn chương trình truyền hình. Tác phẩm dịch từ nước ngoài có: Báo chí truyền hình, tập 2 của các tác giả G.V Cu- dơ- nhét- xốp, X.L X-vích và A. Ia Iu-rốp-xki, nhà xuất bản Thông tấn in năm 2004, trong đó có phần Người dẫn chương trình tin tức, đây là những tri thức quý báu khi tác giả chỉ dùng 5 trang để diễn đạt được những đặc tính quý báu của người dẫn chương trình, như: gương mặt ăn hình, sự hiểu biết và lòng cảm thông của người dẫn chương trình, ngữ điệu truyền cảm...
  • 5. Trong cuốn Truyền thông đại chúng- Công tác biên tập do nhà xuất bản Thông tấn in năm 2003 của tác giả Claudia Mast, cũng có trình bày đến tầm quan trọng của người giới thiệu chương trình[19, tr.116]. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra được một giới hạn đối tượng cho khái niệm người giới thiệu chương trình điều mà nhiều tài liệu trước đó chưa chỉ ra. Ngoài ra còn một cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2008 của tác giả Carmine Gallo, với tựa đề 10 bí quyết thành công của những diễn giả, MC tài năng nhất trên thế giới[11]. Trong đó, tác giả C.Gallo, đồng thời là một nhà diễn thuyết tài năng của Mỹ đã chỉ ra những bí quyết của một người thuyết trình, rất đáng được học hỏi. Ngoài ra nữa, còn có một số tài liệu giảng dạy được ghi chép bởi các học viên tại Truyền hình Việt Nam trong các buổi lên lớp của những giáo sư đến từ Đại học Lille của Pháp, trong đó có đề cập đến những yêu cầu và kỹ năng căn bản của một người dẫn chương trình truyền hình. Đây là tài liệu rất đáng quý, bởi nó cung cấp một tri thức khá mới mẻ về yêu cầu kỹ năng của một người dẫn chương trình. Tuy vậy, tất cả các tài liệu này vẫn chưa đi sâu phân tích một cách bài bản về người dẫn chương trình truyền hình cũng như những kỹ năng cần thiết của họ. Đặc biệt, các tài liệu trên chưa đưa ra được một giới hạn đầy đủ cho các thuật ngữ dùng để chỉ những người dẫn chương trình truyền hình; chưa đưa ra được tiêu chí phân loại những người dẫn chương trình và cũng chưa đề cập một cách đầy đủ các yêu cầu kỹ năng dựa trên những tiêu chí riêng cho từng dạng người dẫn chương trình truyền hình. Tác giả hầu như phải sử dụng nhiều tài liệu bằng tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, thông qua các nguồn: như thư viện trực tuyến Wikipedia.com; một số trang web chuyên về đào tạo người dẫn chương trình của Anh, Mỹ, như:http://www.pozitiv.com; http://www.mediacollege.com; tvpresenter.com…
  • 6. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về phẩm chất, kỹ năng của người dẫn chương trình truyền hình, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất và kỹ năng cơ bản của người dẫn chương trình truyền hình hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Từ mục đích của luận văn này, tác giả mong muốn thực hiện được các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về người dẫn chương trình truyền hình. - Khảo sát một số phẩm chất kỹ năng cơ bản của người dẫn chương trình truyền hình. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng người dẫn chương trình truyền hình ở Việt Nam hiện nay.. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là yêu cầu, phẩm chất, kỹ năng nghề nghiệp của người dẫn chương trình truyền hình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tác giả xác định phạm vi thời gian để khảo sát từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2008. Để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả cũng dự kiến sẽ tiến hành phát phiếu điều tra trong 224 người dẫn chương trình thuộc 9 đài Phát thanh truyền hình trong cả nước và các công ty truyền thông, bao gồm: Đài truyền hình Việt Nam VTV; Đài truyền hình Kỹ thuật số Việt Nam VTC; Đài PTTH Hà Nội HTV; Đài PTTH Hải Phòng THP; Đài PTTH Thanh Hóa TTV; Đài PTTH Nghệ An NTV; Đài PTTH Đồng Tháp ĐTV; Đài PTTH Sơn La STV; Đài PTTH Tuyên
  • 7. Quang TTV; Đài PTTH Điện Biên ĐTV; Đài PTTH Bình Dương BTV; Kênh truyền hình 02TV; Kênh truyền hình VTC8; Đài PTTH Bắc Ninh; Công ty cổ phần truyền thông Nhật Minh; Công ty cổ phần truyền thông quốc tế VTCI. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận chung Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Luận văn cũng được nghiên cứu trên cơ sở tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực báo chí, truyền hình của các tác giả đi trước. 5.2. Phương pháp cụ thể - Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, logic lịch sử, phương pháp hệ thống và các phương pháp xã hội học như: phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng, điều tra xã hội học bằng bảng hỏi để làm cơ sở cho các phân tích. - Luận văn cũng kế thừa những mặt hợp lý của các tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6.1. Về mặt lý luận Trên phương diện lý luận, luận văn góp phần bổ sung nền tảng lý luận cho lĩnh vực còn tương đối mới mẻ tại Việt Nam, đó là lý luận về yêu cầu, phẩm chất, kỹ năng của người dẫn chương trình truyền hình. Góp phần đưa ra những góc nhìn mới, đa diện để phát triển lý luận cho lĩnh vực này. 6.2. Về mặt thực tiễn Đề tài luận văn này sẽ tập trung làm rõ các khái niệm về người dẫn chương trình truyền hình, cũng như phân tích những yêu cầu, phẩm chất, kỹ năng cần thiết đối với người dẫn chương trình truyền hình theo từng thể loại.
  • 8. Luận văn này sẽ là căn cứ khoa học để những người dẫn chương trình có thể vận dụng lý luận về hoạt động dẫn chương trình truyền hình vào hoạt động thực tiễn. Đây cũng có thể trở thành một tài liệu tham khảo đối với những người không hoạt động trong lĩnh vực truyền hình, nhưng muốn tìm hiểu các kỹ năng của một người dẫn chương trình để phục vụ cho các công việc liên quan. Tác giả luận văn cũng mong muốn có thể dành nhiều thời gian hơn nữa để nghiên cứu và phát triển luận văn trở thành một tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo người dẫn chương trình truyền hình. 7. Kết cấu luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn này được kết cấu gồm 3 chương, 10 tiết, 96 trang.
  • 9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH 1. Lịch sử phát triển của thuật ngữ người dẫn chương trình truyền hình 1.1.Trên thế giới Trên thế giới những khái niệm đầu tiên về người dẫn chương trình được biết đến từ thời Phục Hưng và xuất phát từ hoạt động của các Nhà thờ Công giáo[30]. Trong các nhà thờ người ta gọi những người điều hành các buổi lễ tế, các chủ lễ, hay Chưởng nghi là Master of Ceremonies(gọi tắt là MC). Đó là người rất quan trọng của buổi lễ tế, họ phải chịu trách nhiệm tiến hành một cách chính xác và suôn sẻ các buổi lễ, cũng như các nghi thức liên quan. Tên của những Masters of Ceremonies(người chủ lễ) được biết kể từ cuối Trung Cổ (thế kỷ 15) và thời Phục Hưng (Renaissance) ở thế kỷ 16[40]. Tại một nhà thờ Công giáo lớn, Master of Ceremonies cũng chịu trách nhiệm về an ninh của nơi thờ phụng trong các buổi cầu nguyện. Đặc biệt trong những lễ hội lớn như Lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh, các Master of Ceremonies giữ một vai trò rất quan trọng, họ phải đảm bảo rằng tất cả mọi thứ đều vận hành thuận lợi[40]. Người ta đã giả định rằng nguồn gốc của Master of Ceremonies có thể đã được hình thành từ thời gian Hoàng đế Constantine Great (Năm 324), hoặc từ trong thời gian Đạo Cơ đốc trở thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La Mã năm 380.[30] Vào thập niên 1970 và thập niên 1980, thuật ngữ MC có liên hệ với âm nhạc hip-hop, và là từ để chỉ người, mà bây giờ thường được gọi là "rapper"- tức là người đọc-chơi nhạc rap. Khi ấy, người ta còn coi MC là viết tắt của những cụm từ như: Microphone Controller, Mic Checka, Music Commentator và Moves the Crowd, được hiểu là người chỉnh nhạc. Ở một số quốc gia khác,
  • 10. người dẫn chương trình còn có trách nhiệm biên tập chương trình và chính mình giới thiệu, dẫn dắt cho chương trình đó.[40] Thậm chí, trong quá khứ hoàng gia châu Âu, Masters of Ceremonies là người chịu trách nhiệm tiến hành các nghi thức trong các buổi lễ ngoại giao của hoàng tộc. Từ điển Wikipedia.com định nghĩa:“Người dẫn chương trình, hay còn gọi là em-xi (MC) do gọi tắt từ tiếng Anh: Master of Ceremonies, theo nghĩa thông thường được hiểu là người hướng dẫn quần chúng trong một sự kiện”[30]. Hiểu một cách chính xác, MC là người tổ chức sự kiện, và sự kiện đó chỉ diễn ra trong vòng một đêm. Trong lĩnh vực truyền hình, ở Mỹ[30], người ta cũng dùng thuật ngữ MC dùng để chỉ người dẫn chương trình truyền hình, tương tự như từ Host. Thế nhưng do khả năng phân biệt của từ này quá rộng, nên trong lĩnh vực truyền hình, người ta thường dùng các thuật ngữ khác có khả năng diễn đạt cụ thể nội hàm của nó, ví dụ như: Chúng ta thấy cách dùng thuật ngữ News presenter của người Anh để gọi người dẫn chương trình tin tức trên truyền hình, đó là người có nhiệm vụ xây dựng một khung chương trình Tin tức, quyết định lựa chọn những tin tức nóng hổi, xắp sếp thứ tự tin và đồng thời anh ta(hay cô ta) dẫn chương trình đó, để mang chương trình tin tức đó đến với những khán giả của họ. Hoặc người Mỹ sẽ dùng thuật ngữ: show host để gọi người thực hiện và hướng dẫn các chương trình talk show hay game show. Chẳng hạn, người ta gọi Larry King ở talk show mang tên Larry King Live là talk show host. Trên thực tế, khi chuyển nghĩa của từ talk show host sang tiếng Việt chúng ta vẫn chưa có một khái niệm tương ứng, bởi một talk show host như Larry King hay Oprah Winfrey, họ không chỉ làm công việc dẫn chương trình, mà còn là tác giả của format, tác giả kịch bản, thậm chí tổ chức sản xuất chương trình đó. Chính vì còn nhiều khác biệt như vậy, nên tác giả
  • 11. luận văn chỉ nghiên cứu ở góc độ chức năng là một người dẫn chương trình mà thôi. Hoặc truyền hình ở Anh thường dùng từ Newscaster để gọi người dẫn ở mục điểm tin. Trong khi đó tại Mỹ và Canada người ta gọi các Newscaster và News presenter là News Anchor. Riêng hãng tin BBC lại gọi các Newscaster và News presenter là: Newsreader. 1.2. Ở Việt Nam Khác với các nước có nền truyền hình phát triển mạnh trên thế giới, khi du nhập vào Việt Nam, thuật ngữ MC được người ta dùng để gọi tắt chức danh người dẫn chương trình truyền hình, ban đầu là tại đài Truyền hình Việt Nam(MC truyền hình). Chưa có một tài liệu nào khẳng định thuật ngữ này chính thức được nhập vào Việt Nam từ bao giờ, song rõ ràng nó có sức sống khá mãnh liệt ở mảnh đất còn rất màu mỡ này. Trước khi thuật ngữ MC trở nên phổ biến như hiện nay, thì người ta gọi những người làm công việc dẫn chương trình trên truyền hình là phát thanh viên, hay biên tập viên hoặc đơn giản là người dẫn chương trình. Thuật ngữ người dẫn chương trình ở Việt Nam mới chỉ xuất hiện thời gian gần đây (có thể) từ khi Truyền hình Việt Nam(VTV) bắt đầu sản xuất các chương trình Trò chơi, đó là vào thời điểm những năm 1996, 1997 với chương trình đầu tiên là SV 96 do nhà báo Lại Văn Sâm dẫn(trước đó ở VTV và các đài truyền hình địa phương, người ta gọi những người dẫn chương trình trên truyền hình là các phát thanh viên). Sau đó là thời gian phát triển mạnh mẽ các chương trình trò chơi trên truyền hình, điều đó bắt buộc VTV phải có đội ngũ những người dẫn chương trình nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu này. Một loạt chương trình mới như: Từ ánh mắt đến trái tim gắn với tên tuổi người dẫn chương trình Hoa Thanh Tùng; Trò chơi liên tỉnh gắn với tên tuổi nhà báo Lại Văn Sâm, Đỗ Hồng Cư…; Vườn cổ tích với sự dẫn dắt của Thuận
  • 12. Sơn; Đường lên đỉnh Olimpia với sự dẫn dắt của nhà báo Tạ Bích Loan, Lưu Minh Vũ, Tùng Chi…; Ở nhà chủ nhật với sự xuất hiện của Bùi Thu Thủy trong vai trò người dẫn chương trình… Những năm gần đây, đặc biệt từ những năm 2000 trở lại đây là thời kỳ hoàng kim của các chương trình trò chơi truyền hình, người ta thấy hàng loạt chương trình mới, chủ yếu là các chương trình trò chơi mua bản quyền từ nước ngoài: Hãy chọn giá đúng với người dẫn là nhà báo Lại Văn Sâm, Lưu Minh Vũ; Ai là ai do Kim Khánh dẫn; Trò chơi âm nhạc với sự xuất hiện của Anh Tuấn, Diễm Quỳnh; Đấu trường 100 với Thái Tuấn…Hàng loạt chương trình mới ra đời đồng nghĩa với sự xuất hiện của các người dẫn chương trình ngày càng nhiều hơn. Cùng với sự phát triển mạnh các thể loại chương trình truyền hình, sự ảnh hưởng của truyền hình tới thói quen sử dụng ngôn ngữ của khán giả cũng lớn hơn. Hiện tượng chức danh người dẫn chương trình truyền hình được đọc tắt, viết tắt là MC, có thể xuất hiện trong hoàn cảnh như vậy. Giờ đây, dưới ảnh hưởng của truyền hình, cách gọi người dẫn chương trình thậm chí có tần suất xuất hiện còn ít hơn cách gọi tắt MC, đặc biệt trong phong cách ngôn ngữ lời nói. Như vậy, khác (thậm chí ngược lại) với các nước như: Anh, Mỹ, Canada…(Như ở trên đã nói, ở các nước Anh, Mỹ. Canada…người ta không dùng thuật ngữ MC với tư cách là một người dẫn chương trình truyền hình); ở Việt Nam, thuật ngữ MC là thuật ngữ du nhập, ban đầu được sử dụng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nó là cách gọi tắt, dùng để chỉ người dẫn chương trình truyền hình. Sau đó dưới ảnh hưởng của các phương tiện thông tin đại chúng và nhu cầu sử dụng trong đời sống xã hội, thuật ngữ này đã được ứng dụng rộng rãi, hiện nay, từ MC được hiểu là dùng để chỉ: người dẫn chương trình nói chung. Chúng ta có thể thấy, trong bất kỳ sự kiện
  • 13. nào, từ hôn sự cho tới các buổi trình diễn ca nhạc; từ cuộc giới thiệu sản phẩm mới đến cuộc trao giải Cánh diều vàng…đều xuất hiện người dẫn chương trình và được giới thiệu là MC. Thuật ngữ này ngày càng có xu hướng được mở rộng nội hàm và được xã hội chấp nhận. 2. Vai trò của người dẫn chương trình truyền hình Dẫn chương trình là một mắt xích trong quy trình sản xuất một chương trình truyền hình. Người dẫn chương trình truyền hình là thành viên của ê kíp sản xuất chương trình đó. Trong hầu hết các chương trình truyền hình đều có sự tham gia của người dẫn chương trình. Tùy vào đặc điểm thể loại tác phẩm, tùy thuộc vào yêu cầu thực tế của công việc, mà người dẫn chương trình được đòi hỏi thể hiện vai trò, nhiệm vụ khác nhau, thế nhưng, điểm chung nhất, người dẫn chương trình chính là cầu nối đầu tiên đưa khán giả đến với tác phẩm truyền hình. Người dẫn chương trình là người giới thiệu chương trình. Anh ta có trong tay toàn bộ nội dung, chi tiết trình tự diễn tiến của chương trình. Đồng thời anh ta phải chịu trách nhiệm có tính quyết định về hiệu quả toàn bộ chương trình, anh ta có nhiệm vụ dẫn dắt làm cho mọi người thấy được chủ đề xuyên suốt của chương trình. Nhưng người dẫn chương trình còn phải có khả năng tạo dựng bầu không khí cho toàn bộ chương trình bằng cách tạo ra các đột biến cao trào phấn khởi hay lắng đọng sâu xa nhằm thu hút, lôi cuốn mọi người theo một tiết tấu có tính toán trước một cách khéo léo và chu đáo theo kịch bản. Sự xuất hiện của người dẫn có thể ngắn ngủi thoáng qua, nhưng lại có thể làm nổi bật những thông tin mà anh ta giới thiệu. “Người dẫn chương trình là chất liệu sống động nhất và cũng chủ động nhất để cấu trúc một chương trình truyền hình.”[43]
  • 14. Trên thực tế, ở các kênh truyền hình nước ngoài, chúng ta vẫn thường thấy những chương trình truyền hình mang tên người dẫn ví dụ như: Larry King Live; hay The Oprah Winfrey Show…Ở đây vai trò của cá nhân Larry King hoặc Oprah Winfey là rất quan trọng, họ là tác giả của format chương trình đồng thời là người dựng kịch bản, dẫn chương trình, thậm chí tổ chức sản xuất. Với những chức năng như vậy, có thể nói, đó là linh hồn của một chương trình. Không những thế, người dẫn chương trình còn phải là bộ mặt của chương trình, thậm chí của cả một đài truyền hình. Để đạt được điều đó, ngoài tài năng và những phẩm chất cá nhân được gọt rũa thường xuyên, thì người dẫn chương trình còn phải là người được tin tưởng bởi những giá trị đạo đức cá nhân. Ngày nay, trong xu thế phát triển, ngành truyền hình ở Việt Nam không chỉ cần một đội ngũ người dẫn nhiều về số lượng mà còn phải có chất lượng tốt. Hay nói cách khác, muốn khẳng định được vị trí và uy tín của mình truyền hình phải xây dựng được đội ngũ người dẫn chương trình có phong cách, có cá tính[42]. Điều này xuất phát từ thực tế: trong số hàng chục, hàng trăm người dẫn chương trình, những người dẫn nào được khán yêu mến nhất, chính là những người có cá tính nhiều nhất. Và những chương trình được dẫn dắt, điều khiển bởi người dẫn có cá tính rõ ràng, mới mẻ bao giờ cũng thu hút được lượng khán giả đông nhất. Người dẫn chương trình tài năng là người không chỉ hoàn thành nhiệm vụ làm cầu nối chuyển tải thông điệp mà một chương trình muốn mang đến cho khán giả, mà còn phải là người tạo ra sự cuốn hút, thôi thúc khán giả đến với những chương trình do anh ta dẫn. Bằng tất cả kỹ năng và kinh nghiệm của mình, người dẫn phải làm chủ được mọi tình huống có thể xảy ra, đặc biệt với những chương trình được thực hiện với phương thức truyền hình trực tiếp, thì vai trò của người dẫn là cực kỳ quan trọng. Cũng giống như tướng ra mặt trận, anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm cho tất cả các quyết định mang tính chiến thuật của mình được tổ chức trong trận đánh. Người dẫn trực tiếp cũng như vậy, đôi khi trong những
  • 15. trường hợp bất khả kháng, người dẫn phải là người điều hành để chương trình diễn ra một cách suôn sẻ nhất, mà không có được sự hỗ trợ từ đạo diễn. Chẳng hạn, với chương trình tọa đàm, khi gặp phải một nhân vật đã cao tuổi, lại nói rất nhiều, thật khó cho một người dẫn thiếu kinh nghiệm. Anh ta sẽ không biết phải ngắt lời của vị khách mời đó như thế nào. Hoặc khi thời gian cho chương trình sắp hêt, nhưng những nội dung mà khách mời muốn trao đổi thì còn rất nhiều và rất hấp dẫn. Lúc đó, người dẫn chương trình giỏi phải là người biết can thiệp một cách lịch sự và không khiến cho khách mời cũng như khán giả cảm thấy khó chịu. Một người dẫn chương trình tồi chính là thảm họa cho cả ê kíp sản xuất. Đó là lý do vì sao truyền hình phương Tây và các nước có nền truyền hình phát triển lâu đời, thường chọn những người dẫn chương trình là những người trung niên, với những yêu cầu nghiêm khắc về kinh nghiệm nghề nghiệp. Khi nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi thấy rằng, hầu như trong tất cả các chương trình tin tức hoặc các chương trình tọa đàm của truyền hình phương Tây, thì người dẫn phải là người đã tốt nghiệp một trường hay một khóa đào tạo về báo chí chuyên nghiệp; ngoại trừ những trường hợp tài năng hoặc có vị trí đặc biệt, một người dẫn chương trình truyền hình bắt buộc phải trải qua những vị trí công tác ở cấp thấp hơn, có thể là từ một đài truyền hình của địa phương, hoặc đảm nhận những công việc khác trong một ê kíp sản xuất. Điều này có vẻ hơi trái ngược với thói quen sử dụng người dẫn chương trình ở Việt Nam, và thậm chí cả Trung Quốc, khi chúng ta sử dụng quá nhiều người dẫn trẻ tuổi cho, đặc biệt là, các chương trình tin tức chính luận, là những chương trình yêu cầu những người dẫn chương trình có nhiều kinh nghiệm và khả năng ứng phó nhanh. 3. Các tiêu chí để phân biệt một người dẫn chương trình truyền hình. 3.1. Như đã phân tích ở trên, do là lĩnh vực tương đối mới ở Việt Nam, nên hệ thống thuật ngữ, khái niệm liên quan đến người dẫn chương trình truyền
  • 16. hình và hoạt động dẫn chương trình truyền hình ở nước ta vẫn còn khá ít. Thậm chí có những giai đoạn, việc định danh các tên gọi chỉ người dẫn chương trình truyền hình còn bị rơi vào tình trạng tùy tiện. Trong luận văn này, tác giả đề xuất cách gọi chung cho những người thực hiện hoạt động dẫn các chương trình phát sóng trên các đài truyền hình là: người dẫn chương trình truyền hình, và không đề xuất cách gọi tắt là MC. Những trường hợp mà một người dẫn chương trình đồng thời làm luôn cả nhiệm vụ của một người tổ chức sản xuất, xây dựng kịch bản, như trường hợp của Larry King hoặc Lại Văn Sâm ở VTV, thì, chúng tôi chỉ nghiên cứu ở góc độ công việc dẫn chương trình của họ mà thôi. Hiện nay, trong thực tế đời sống truyền hình, đang tồn tại phổ biến một quan điểm phân chia những người dẫn chương trình truyền hình thành 3 nhóm sau đây: nhóm người dẫn chương trình thời sự, chính luận; nhóm người dẫn chương trình khoa học, giáo dục và; nhóm người dẫn chương trình trò chơi truyền hình. Trong cách phân loại này, người ta phân biệt người dẫn chương trình này với người dẫn khác thông qua lĩnh vực hoạt động, và đặc trưng khu biệt ở đây là các lĩnh vực khác nhau của đối tượng được phản ánh. Ví dụ, đó là lĩnh vực thời sự chính luận hay lĩnh vực khoa học giáo dục. Tác giả luận văn không đồng tình với cách phân loại như vậy. Thực tế, dù là lĩnh vực thời sự chính luận hay lĩnh vực khoa học giáo dục, thì việc dẫn một bản tin Thời sự tổng hợp cũng không khác gì việc dẫn một bản tin Khoa học công nghệ. Cụ thể, công việc của người dẫn chương trình là sẽ phải biên tập nội dung lời dẫn mà Ban biên tập chương trình, hoặc người tổ chức sản xuất đã phê duyệt, cho phù hợp với văn phong và cách trình bày của mình, sau đó họ sẽ thực hiện ghi hình tại trường quay, hoặc phát sóng trực tiếp, tùy theo yêu cầu của từng đài truyền hình. Điểm khác biệt rõ nhất ở đây là hàm
  • 17. lượng thông tin khoa học giáo dục trong bản tin Khoa học giáo dục cao hơn trong một Bản tin Thời sự tổng hợp. Vậy, liệu điều đó có thể phân biệt được đặc điểm riêng của một người dẫn chương trình ở chương trình này và chương trình khác hay không ? Hoàn toàn không. Bởi, để phân biệt phong cách của người dẫn chương trình này hay chương trình khác phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác hơn là yếu tố lĩnh vực hoạt động. Chẳng hạn, chúng ta có thể phân biệt rõ ràng hơn phong cách của một người dẫn Bản tin thời sự với một người dẫn chương trình Khoa học vui. Và những yếu tố để phân biệt là gì? Đó phải là: cách thức tiếp cận khán giả của người dẫn; diện mạo trang phục của họ; phong cách lời dẫn; các yếu tố ngôn ngữ hình thể… Từ những yếu tố này, xem lại cách phân loại ở trên, chúng ta thấy, một người dẫn Bản tin thời sự có chung cách thức tiếp cận khán giả với người dẫn chương trình Bản tin khoa học, ở chỗ, họ cùng có chung một kiểu khuôn hình, thường là bắt trung hoặc cận cảnh người dẫn trong phòng thu; họ cùng có chung một kiểu diện mạo và trang phục tương đối chỉn chu; họ cùng có chung một phong cách lời dẫn mang tính chất chính luận, và, họ hầu như không phát huy yếu tố ngôn ngữ cơ thể. Lấy ví dụ như chương trình Thời sự của VTV và series chương trình Bảy ngày công nghệ cũng của VTV.(1) Vậy, làm sao có thể phân biệt được những người dẫn chương trình khác nhau nếu chỉ dựa vào yếu tố lĩnh vực hoạt động. Một ví dụ khác, khi so sánh phong cách của một người dẫn chương trình trò chơi truyền hình Hành trình văn hóa với phong cách dẫn chương trình của người dẫn chương trình Theo dòng lịch sử; tác giả luận văn này cũng rất khó phân biệt rạch ròi những đặc điểm khu biệt phong cách dẫn của Bạch Dương(Hành trình văn hóa) với phong cách dẫn của Nguyên Sơn(Theo dòng lịch sử). Bởi, nếu dựa trên yếu tố lĩnh vực hoạt động, thì, Bạch Dương và Nguyên Sơn sẽ phải có nhiều điểm khác nhau. Nguyên Sơn dẫn chương trình
  • 18. Theo dòng lịch sử, một chương tình thuộc Ban Khoa giáo, THVN; Bạch Dương dẫn chương trình Hành trình văn hóa, một chương trình thuộc Ban Thể thao- giải trí- thông tin kinh tế, THVN. Nhưng trên thực tế, cả người dẫn Nguyên Sơn và Bạch Dương đều có chung một phong cách xuất hiện trước công chúng, đó là xuất hiện trong một không gian rộng, bao gồm trường quay và những người chơi lẫn khán giả, với khuôn hình đại toàn cảnh; ngôn ngữ cơ thể của 2 người dẫn này được biểu hiện khá triệt để với việc đi lại nhiều trên sân khấu, động tác tay chân, mặt thể hiện rất hiệu quả; trang phục và phong cách trang điểm của cả 2 người dẫn khá phong phú, và, ngôn ngữ lời dẫn khá sinh động.(2) Thứ hai, quan điểm phân chia theo lĩnh vực hoạt động ở trên cũng thực sự chưa chính xác. Chúng ta hãy cùng nhìn lại, cách phân chia lĩnh vực như ở trên đã khoa học hay chưa, khi ta thấy rằng, vẫn còn sự nhập nhằng giữa cách gọi nhóm chương trình thuộc lĩnh vực trò chơi truyền hình với cách gọi nhóm chương trình khoa học giáo dục và nhóm chương trình thời sự chính luận. Ví dụ, với tư cách là một thể loại tác phẩm truyền hình, Trò chơi truyền hình có thể dung nạp tất cả các chương trình truyền hình được thực hiện dưới hình thức trò chơi, có thể bao gồm cả những chương trình thuộc lĩnh vực giải trí, và những chương trình thuộc lĩnh vực khoa học, giáo dục, như: Theo dòng lịch sử, Hãy chọn giá đúng(VTV),Thần đồng đất Việt(VTC), Nốt nhạc kỳ diệu(HTV)…(3) Và, khi phân chia những tác phẩm, những chương trình truyền hình, có lẽ chúng ta cũng không nên căn cứ vào lĩnh vực được phản ánh, mà nên chăng, phải phân biệt chúng dựa vào đặc trưng thể loại. Đến đây sẽ xuất hiện một vài khó khăn, đó là, vốn dĩ là một lĩnh vực còn mới ở Việt Nam, nên những công trình nghiên cứu lý luận về truyền hình vẫn còn khá thưa thớt, chính vì vậy, cho đến nay vẫn chưa có được một quan niệm phân chia thể loại hoàn chỉnh trong lĩnh vực truyền hình. Điều này rất cần các nhà nghiên cứu bắt tay để tổng kết thực tiễn hoạt động sản xuất chương trình truyền hình và xây dựng nên hệ thống lý thuyết về thể loại tác phẩm
  • 19. truyền hình, có như vậy mới có thể hy vọng vào một sự nhất quán trong quan niệm về các khái niệm phái sinh.(Bản thân tên gọi các dạng người dẫn chương trình truyền hình cũng là một khái niệm phái sinh). Trong khi chờ đợi có được sự thống nhất trong nghiên cứu về thể loại tác phẩm truyền hình, thì chúng ta cũng không nên vì thế mà dễ dàng chấp nhận những khái niệm chưa chuẩn mực.(4) Việc định danh cho một kiểu tác phẩm, một kiểu công việc trong quy trình sản xuất chương trình truyền hình, trong khi, chưa có sự nhất quán mang tính chất khoa học, có thể được chấp nhận, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực tiễn. Song, một khi đã có những ý kiến phản biện, thì thiết nghĩ, chúng ta cũng nên công bằng và khách quan, đồng thời tạo điều kiện để các ý tưởng mới có cơ hội chứng minh, góp phần hình thành diện mạo cho ngành khoa học lý luận truyền hình. Từ (1), (2), (3), và (4) tác giả luận văn đề xuất cách phân loại mới dựa trên lý thuyết về tính trội của các yếu tố hình thức đặc trưng về: bối cảnh ghi hình; cách thức tiếp cận khán giả của người dẫn; diện mạo trang phục của họ; phong cách lời dẫn; các yếu tố ngôn ngữ hình thể; giọng nói; cách biểu đạt… Sở dĩ tác giả luận văn không dựa trên tiêu chí về thể loại, là vì, như đã nói ở trên, hệ thống thuật ngữ, khái niệm về thể loại tác phẩm truyền hình ở Việt Nam chưa hoàn thiện, nên tác giả đề xuất một cách tiếp cận dựa trên những đặc điểm khác nhau về những yếu tố hình thức chung cấu thành nên tác phẩm truyền hình đó. Cho đến khi có được những kết quả nghiên cứu thống nhất về thể loại tác phẩm truyền hình, tác giả luận văn sẽ xem xét để hoàn thiện cách tiếp cận của mình. 3.2. Các tiêu chí phân loại người dẫn chương trình truyền hình 3.2.1. Bối cảnh ghi hình Đây là yêu tố hình thức giúp phân biệt những bối cảnh làm việc chung của một người dẫn chương trình. Thông thường, sự phân biệt bằng yếu tố này tỏ ra không rõ rệt lắm, chẳng hạn một người dẫn chương trình tạp chí thông thường sẽ xuất hiện trong bối cảnh ở trường quay hoặc phòng thu, thế nhưng,
  • 20. trong một số trường hợp, để tăng hiệu quả hình ảnh anh ta sẽ xuất hiện tại hiện trường để giới thiệu về một chủ đề nào đó. Và khi đó, chúng ta thấy bối cảnh xuất hiện của anh ta sẽ giống với bối cảnh xuất hiện của một người dẫn chương trình trò chơi vận động. Chính vì vậy, chúng ta phải có rất nhiều yếu tố khác để giúp cho việc phân biệt được dễ dàng hơn. Có 2 kiểu bối cảnh ghi hình chính: + Bối cảnh ghi hình trong trường quay(hoặc trong phòng thu). + Bối cảnh ghi hình ngoài hiện trường(bao gồm cả hiện trường ảo, hiện trường thực tế được thiết kế trong trường quay) 3.2.2. Phương thức xuất hiện của người dẫn Phương thức xuất hiện của người dẫn tức là cách thức anh ta xuất hiện trên màn hình. Phương thức xuất hiện có thể chia thành 4 dạng: xuất hiện trực tiếp hoặc xuất hiện không trực tiếp; xuất hiện đơn phương thức hoặc xuất hiện đa phương thức. Trong truyền hình hiện đại, người ta càng ngày càng chú trọng phương thức xuất hiện trực tiếp của người dẫn chương trình trong các bản tin thời sự, các chương trình tọa đàm. Điều này sẽ khiến cho những thông tin của chương trình tin tức( ở Việt Nam phổ biến cách hiểu là bản tin thời sự) trở nên nhanh hơn, cập nhật hơn. Tương tự như vậy, việc phát sóng trực tiếp các chương trình tọa đàm sẽ khiến nó hấp dẫn hơn bởi những bất ngờ do những tình huống nói chuyện của người dẫn và khách mời mang lại. Không những thế, khán giả có thể nhìn thấy diễn tiến câu chuyện với những gì thật nhất, mà không bị giấu đi bởi bàn tay của biên tập. Ngược lại, trong một số thể loại khác, như Trò chơi truyền hình, chi phí sản xuất, chẳng hạn như việc dựng một trường quay cho chương trình Ai là triệu phú rất tốn kém, người ta sẽ phải thu hàng chục chương trình trong một ngày và sau đó thực hiện hậu kỳ để phát lại. Ngoài ra, với những chương trình trò chơi, tính chất công việc tương đối phức tạp, liên quan đến nhiều bộ phận, nên, để
  • 21. đảm bảo an toàn sóng, những nhà tổ chức sản xuất cũng thường chọn phương thức phát lại. Bốn phương thức xuất hiện của người dẫn chương trình truyền hình: + Phương thức xuất hiện trực tiếp + Xuất hiện không trực tiếp + Đơn phương thức + Đa phương thức: phân biệt đơn phương thức và đa phương thức là dựa trên yếu tố đa dạng trong việc người dẫn xuất hiện trên sóng, chẳng hạn, để phân biệt sự xuất hiện của người dẫn tạp chí với người dẫn chương trình tin tức. Khán giả có thể thấy, một người dẫn tạp chí có thể xuất hiện với nhiều bối cảnh khác nhau tùy thuộc vào nội dung tạp chí đó, trong khi, người dẫn chương trình tin tức hầu như chỉ xuất hiện trong một bối cảnh phòng thu. 3.2.3. Trang phục Trang phục là một trong những yếu tố hình thức thể hiện rõ nhất sự khác nhau của người dẫn chương trình. Đặc biệt dễ dàng để phân biệt một người dẫn chương trình tin tức với một người dẫn chương trình trò chơi. Ngoại trừ phong cách riêng trong cách ăn mặc của mỗi người dẫn, có thể thấy, thông thường, một người dẫn chương trình tin tức bao giờ cũng phải tuân thủ những quy định rất nghiêm ngặt của Ban biên tập, trong khi đó, người dẫn trò chơi truyền hình có thể phóng khoáng hơn rất nhiều trong việc lựa chọn trang phục cho mình.(Xem thêm Phụ lục 2) Có 2 dạng phong cách trang phục: + Phom chuẩn(áo dài với nữ, vest đối với nam). + Đa dạng.người ta không khuyến khích phương thức phát sóng trực tiếp. Lý do là vì, để tiết kiệm 3.2.4. Ngôn ngữ cơ thể
  • 22. Yếu tố này ngày càng được đề cao đối với một người dẫn chương trình. Đó là khả năng xử lý ngôn ngữ của cơ thể, nó bao gồm: tư thế, cử chỉ, điệu bộ, sự liên hệ của mắt. Một nghiên cứu của thiyagarajan.wordpress.com khẳng định, những gì mà cơ thể của chúng ta làm, có thể chuyển tải nhiều thông điệp hơn là chúng ta nghĩ. Chẳng hạn, mắt có thể tạo ra sự tương tác tốt hơn đối với người xem truyền hình, còn những cử chỉ có thể khiến cho lời dẫn của bạn thêm năng lượng và sự tự tin. Tư thế cũng có thể ảnh hưởng đến tâm lý của một người dẫn chương trình. Thậm chí, trong rất nhiều tài liệu nước ngoài, khi phân tích vai trò của ngôn ngữ cơ thể(body language), còn khẳng định, trong tâm lý học giao tiếp, ngôn ngữ cơ thể chiếm tới 55% hiệu quả giao tiếp với khán giả truyền hình[41]. Tùy vào từng nội dung chương trình khác nhau, ngôn ngữ cơ thể của một người dẫn chương trình cũng được biểu đạt theo những chiều hướng khác nhau. Thông thường có hai cấp độ biểu đạt của ngôn ngữ cơ thể có thể nhận ra dễ dàng nhất: + Biểu lộ hạn chế. Mặc dù ngôn ngữ cơ thể rất quan trọng, nhưng cách thức biểu đạt và tần xuất thể hiện cũng khác nhau dựa vào nội dung của một chương trình. Với một chương trình thời sự, người dẫn không thể sử dụng ngôn ngữ cơ thể như người dẫn chương trình trò chơi truyền hình. Anh ta sẽ phải sử dụng ngôn ngữ cơ thể ở hình thức tinh vi nhất có thể, những biểu đạt thường dùng nhất của người dẫn chương trình tin tức là các điệu bộ của đầu, mắt và hai bàn tay. + Biểu lộ thoải mái. Với những người dẫn chương trình ở các thể loại khác, ngôn ngữ cơ thể được biểu đạt tối đa. Đặc biệt là với những chương trình trò chơi, tọa đàm hay một tạp chí. Một người dẫn thể loại trò chơi tiêu biểu cho phong cách ngôn ngữ cơ thể phóng khoáng là nghệ sỹ Thanh Bạch. Hầu như các bộ phận trong cơ thể của anh đều phải hoạt động trong một chương trình.
  • 23. 3.2.5. Giọng nói Chất giọng, ngữ điệu, kỹ thuật xử lý tiếng nói là những yếu tố tạo nên một giọng nói tốt trên truyền hình. Cũng tùy vào thể loại, nội dung chương trình khác nhau mà người dẫn chương trình cần phải có những yếu tố về giọng nói khác nhau. Một người dẫn tạp chí sẽ không nhất thiết phải xử lý ngữ điệu quá phức tạp, nếu không, thậm chí anh ta còn bị chê trách là quá điệu đà. Trong khi đó, với việc dẫn một chương trình trò chơi, hòi hỏi phải tăng tính gay cấn, hồi hộp, thì người dẫn có khi còn phải rất khéo léo để nhả câu nhả chữ sao cho khán giả hồi hộp nhất có thể. Hoặc một chương trình tin tức với tiết tấu nhanh, mạnh, nội dung tin tức phong phú, đầy sức chiến đấu, thì người dẫn sẽ không thể xuất hiện với giọng nói quá yếu ớt. Căn cứ vào các yếu tố đó, chúng ta có thể chia đặc trưng về giọng nói thành hai dạng: + Linh hoạt mềm mại Kiểu đặc trưng giọng nói linh hoạt mềm mại thường phù hợp với các chương trình trò chơi, hay chương trình tọa đàm. Ở đó người dẫn, với phong cách nói, và thường là, không phụ thuộc vào kịch bản lời dẫn, có thể phát huy tối đa khả năng xử lý ngôn ngữ lời của mình. + Mạnh mẽ truyền cảm Ngược lại với kiểu đặc trưng giọng nói linh hoạt mềm mại, trong một số nhóm chương trình khác, người dẫn bắt buộc phải sử dụng ngôn ngữ lời nói theo những nguyên tắc nhất định. Ví dụ, đối với chương trình tin tức, một người dẫn cũng được khuyến khích cần xử lý giọng nói linh hoạt, song yêu cầu đầu tiên vẫn phải là mạnh mẽ truyền cảm. Với đặc trưng trong cách tiếp cận khán giả, người dẫn chương trình tin tức không có nhiều lợi thế trong việc thu hút sự chú ý của công chúng như người dẫn chương trình trò chơi, vì vậy, ngay từ khi xuất hiện, người dẫn chương trình tin tức phải lập tức chiếm giữ cảm tình của người xem bằng chất giọng mạnh mẽ, truyền cảm của mình.
  • 24. 3.2.6. Văn phong Những yếu tố đặc trưng về văn phong cũng là một trong những dấu hiệu hình thức dễ nhận biết nhất để phân biệt người dẫn chương trình thuộc thể loại này với thể loại khác. Căn cứ những đặc trưng riêng, có thể chia ra 3 dạng văn phong sau đây: + Chính luận. Đây là dạng văn phong bắt buộc sử dụng đối với người dẫn chương trình tin tức. Xét trên quan điểm thể loại, chương trình tin tức thuộc nhóm thể loại chính luận, với các đặc trưng chung về ngôn ngữ mang tính chính luận. Là người dẫn chương trình thì yêu cầu cơ bản nhất đó là khả năng biểu đạt ngôn ngữ. Người dẫn chương trình tin tức không chỉ là người “phát thanh” nội dung chương trình mà họ phải là người “truyền tải” tin tức đến đông đảo khán giả. Họ không chỉ cần nói lưu loát mà còn phải nói “đúng” và nói “trúng”. Muốn vậy người dẫn chương trình tin tức phải có kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm phong phú. Những người dẫn chương trình tin tức thường phải tiếp cận những vấn đề liên quan đến nhiều khía cạnh chính trị, khoa học, văn hóa giáo dục… vì thế họ phải có sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực thì mới có lòng tin và khả năng điều tiết chương trình, đồng thời ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra. + Phong cách nói. Văn phong ngôn ngữ lời nói, thường được áp dụng cho các chương trình trò chơi truyền hình với việc người dẫn hầu như thoát ly khỏi kịch bản lời dẫn, họ chỉ việc bám sát kết cấu kịch bản của một trò chơi và tung hứng bằng lời nói với những người chơi để tạo nên những tình huống giao tiếp bất ngờ cho khán giả. + Đa phong cách.
  • 25. Đó là việc sử dụng kết hợp các dạng phong cách ngôn ngữ khác nhau trong khi dẫn chương trình. Có thể đó là sự kết hợp phong cách ngôn ngữ chính luận với phong cách nói, hoặc phong cách ngôn ngữ khoa học với phong cách nói.v.v…Chẳng hạn, với một tạp chí truyền hình chuyên phan tích về cấu trúc tế bào, thì người dẫn sẽ hay dùng kết hợp giữa phong cách nói với phong cách ngôn ngữ khoa học; hoặc là khi dẫn một chương trình tọa đàm, người dẫn sẽ phải sử dụng kết hợp cả phong cách chính luận và phong cách nói. Theo cách đó, tác giả đề xuất các khái niệm sau đây, dùng để chỉ những người dẫn chương trình khác nhau. 4. Một số khái niệm về người dẫn chương trình truyền hình 4.1. Người dẫn chương trình tin tức Đó là người dẫn và giới thiệu tin tức thời sự phát sóng hàng ngày trong các bản tin hoặc chương trình thời sự của một đài truyền hình, họ đồng thời cũng là người biên tập lời dẫn để giới thiệu những thông tin ngắn gọn xúc tích nhất của một tin tức tới khán giả truyền hình, sau khi người tổ chức sản xuất đã quyết định lựa chọn tin, bài nào. Người dẫn chương trình có thể là nam hoặc nữ. Ở các đài lớn, họ thường được coi như gương mặt đại diện cho cả đài. Những phát ngôn của anh ta, hoặc cô ta phải đạt đến trình độ chuẩn mực cả về ngôn ngữ và hàm lượng, chất lượng thông tin. Một người dẫn chương trình tin tức giỏi là người được công chúng tin cậy và mến mộ thông qua phong cách dẫn dắt, đưa tin, cũng như thông qua chất lượng biểu đạt cả về nội dung và hình ảnh của tin bài và cả sự xuất hiện của anh ta hoặc cô ta. Nội dung của các bản tin thời sự thường khô khan vì thế vai trò của người dẫn chương trình càng quan trọng hơn trong việc thu hút sự chú ý theo dõi của khán giả.
  • 26. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, nhà quản lý của kênh truyền hình tin tức CBS khi tìm Walter Leland Cronkite làm người kế nhiệm cho vị trí dẫn chương trình thời sự đã đưa ra 4 yêu cầu cơ bản: một là người dẫn chương trình không những phải có khả năng truyền đạt thông tin mà còn phải có khả năng viết và biên tập. Hai là có khả năng của một phóng viên khi không lên hình. Ba là trong những tình huống bất lợi hoặc nguy hiểm vẫn có thể ứng biến để kịp thời đến hiện trường đưa tin về những vấn đề nóng bỏng đang diễn ra như hội nghị cấp cao hay bầu cử tổng thống. Cuối cùng là yêu cầu về phẩm chất đạo đức cũng như tác phong của người dẫn chương trình vì họ chính là hình ảnh đại diện rõ nét nhất của ban thời sự CBS nói riêng cũng như hình ảnh của CBS nói chung[33]. Dựa vào bối cảnh ghi hình; phương thức xuất hiện của người dẫn; trang phục; ngôn ngữ cơ thể; giọng nói, cách biểu đạt có thể chia thành 2 dạng dẫn chương trình thời sự: + Người dẫn thời sự hiện trường. Người dẫn thời sự hiện trường thường là một phóng viên, cũng có khi là một người dẫn bản tin, hoặc thậm chí là một cộng tác viên, thông tin viên. Họ xuất hiện tại hiện trường của sự kiện và trực tiếp mô tả diễn biến của sự kiện đó, cũng như những quan sát mà anh ta ghi nhận được và truyền trực tiếp trên sóng. Ở các nước có nền công nghiệp truyền hình phát triển mạnh, những người dẫn thời sự hiện trường rất được khuyến khích làm việc, vì họ là người chứng kiến ngay tại chỗ sự kiện đó, do vậy tính chân thật, khách quan của thông tin được thể hiện ở mức độ rất cao. Tại Việt nam, họ thường được gọi là phóng viên dẫn hiện trường, hoặc người dẫn hiện trường. + Người dẫn chương trình tin tức tại trường quay: họ thường chịu áp lực rất cao về khối lượng công việc và sức ép về mặt thời gian. Bình tĩnh và phản xạ nhanh là những yêu cầu cần thiết đối với họ.
  • 27. Ở các nước có ngành truyền hình phát triển, những nhà lãnh đạo của đài truyền hình thường thích sử dụng người dẫn chương trình tin tức là những người có kinh nghiệm, nhằm đạt được sự tin tưởng của công chúng truyền hình. Người dẫn bản tin nhất thiết phải được trang bị một tấm bằng Cử nhân Báo chí, hoặc phải được trưởng thành từ những vị trí trong dây chuyền sản xuất chương trình tin tức. Với những đài truyền hình ở Mỹ hay Anh, những người dẫn chương trình tin tức được trả một mức lương rất cao và vị trí của họ được coi là niềm mơ ước của nhiều phóng viên. 4.2. Người dẫn chương trình tọa đàm Hiện nay ở Đài truyền hình Việt Nam, cách dùng thuật ngữ người dẫn chương trình giao lưu- gặp gỡ truyền hình được dùng phổ biến, và thậm chí, nó còn được đặt tên cho một giải thưởng trong cuộc bình chọn hàng năm được Tạp chí Truyền hình Việt Nam tổ chức. Trong luận văn về Ngôn ngữ của người dẫn chương trình truyền hình, tác giả Lê Thị Phong Lan đề xuất khái niệm: “Các chương trình giao lưu – gặp gỡ trên truyền hình là dạng chương trình mà người dẫn- đại diện cho đài truyền hình trò chuyện, phỏng vấn khách mời nhằm tạo ra một sản phẩm thông tin[…] vai trò của người dẫn chương trình rất quan trọng, được xem như người chủ của buổi trò chuyện…”[17, tr.46]. Theo tác giả luận văn này cách gọi: chương trình giao lưu- gặp gỡ truyền hình, bản thân ý nghĩa của nó vừa quá rộng, lại mơ hồ trong xác định đối tượng. Thử hỏi có một chương trình nào mà không có yếu tố giao lưu trong đó ? Và nếu không gặp gỡ thì làm sao có thể thực hiện được bất kỳ một chương trình truyền hình nào !? Cũng với nội hàm như tác giả Phong Lan đã đưa ra, tác giả luận văn này xin đề xuất cách gọi ngắn gọn, đó là : Thể loại chương trình tọa đàm. Gắn với thể loại này là khái niệm: Người dẫn chương trình tọa đàm
  • 28. Khi xem xét đưa ra khái niệm này, tác giả luận văn cũng thấy tương đồng với cách gọi người dẫn các chương trình talk show tại các nước có nền truyền hình phát triển như Anh, Mỹ, Canada…Tại Mỹ, hệ thống truyền hình CBS, CNN, NBC, CNBC…đều gọi những người thực hiện và dẫn dắt những chương trình talk show là Talk show host(người chủ trì chương trình trò chuyện). Có nhiều dạng tọa đàm khác nhau tùy vào số lượng khách mời cũng như hình thức cuộc trò chuyện. Ví dụ: đối thoại, hay diễn đàn… Một người dẫn chương trình tọa đàm thường là người chịu trách nhiệm trong việc hình thành đường dây kịch bản. Anh ta cũng có thể đảm đương nhiều công việc khác trong quy trình sản xuất. Thông thường, đó phải là một người có nhiều kinh nghiệm, khả năng phân tích, đánh giá vấn đề tốt, đặc biệt với những chương trình nói về những lĩnh vực chuyên môn sâu, thì người dẫn phải là người rất am hiểu lĩnh vực đó để có thể đưa ra những câu hỏi thông minh, sắc sảo. Đôi khi các đài truyền hình có thể thuê những chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan làm người dẫn cho các chương trình tọa đàm như vậy. Bằng vũ khí là những câu hỏi, người dẫn chương trình tọa đàm giỏi có thể điều khiển cuộc trò chuyện theo ý đồ mà chương trình đề ra để khách mời thể hiện quan điểm của mình trước các hiện tượng xã hội. Khác với người dẫn tin tức, người dẫn tọa đàm thể hiện năng lực của mình thông qua những câu hỏi và khả năng kiểm soát tình thế so với khách mời. Khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, khả năng phán đoán và xử lý tình huống mau lẹ là đặc trưng nổi trội của người dẫn tọa đàm. Thông thường những nhà báo giàu kinh nghiệm sẽ là người được giao trọng trách điều hành các chương trình tọa đàm. 4.3. Người dẫn chương trình trò chơi Thể loại chương trình trò chơi truyền hình từ khi xuất hiện ở Việt Nam đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của khán giả vốn lâu nay chưa được thưởng thức những chương trình trẻ trung, sôi động như thế. Đặc trưng giải trí là yếu tố chi
  • 29. phối toàn bộ nội dung, hình thức, kết cấu của một chương trình. Chính vì vậy, người dẫn chương trò chơi giỏi phải là người biết cách lôi cuốn khán giả hòa mình vào không khí của chương trình. Những yếu tố kỹ năng cần thiết của một người dẫn trò chơi là hoạt bát, xử lý tình huống nhanh; cách xứ lý ngôn ngữ cơ thể tốt; duyên dáng và gần gũi. Chính vì thế, trong thể loại chương trình trò chơi truyền hình, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều người dẫn chương trình là các nghệ sỹ, diễn viên… Có hai dạng trò chơi truyền hình thường gặp, đó là trò chơi vận động và trò chơi kiến thức. Tùy vào dạng trò chơi nào mà có những yêu cầu khác nhau về người dẫn. Với một chương trình trò chơi kiến thức, thì yếu tố duyên dáng, thông minh là quan trọng, nhưng với một chương trình trò chơi vận động thì khả năng hoạt náo, khuấy động và gần gũi của người dẫn sẽ có thể khiến cả trường quay cùng tham gia cuộc chơi. 4.4. Người dẫn chương trình tạp chí Hiện nay ở Việt Nam, thể loại chương trình tạp chí truyền hình không có sức lan tỏa mạnh mẽ như các thể loại khác. Tại các đài truyền hình các chương trình tạp chí tương đối nghèo nàn về chất lượng. Tuy nhiên, nếu phát huy đúng khả năng của mình, các chương trình tạp chí sẽ có thế mạnh riêng mà khó có thể loại nào theo kịp, đó là khả năng phân tích tập trung và chuyên sâu vào những lĩnh vực đặc thù. Chẳng hạn như một tạp chí chuyên sâu về công nghệ hay đời sống tự nhiên của các loài.v.v… Ở thể loại này, người dẫn chương trình dường như phải là một chuyên gia thực sự trong lĩnh vực của mình. Sự xuất hiện của người dẫn chương trình cũng sẽ khiến cho chương trình đó trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Người dẫn trong thể loại này thường được đòi hỏi phải là một người duyên dáng, tin cậy.
  • 30. Chương 2 PHẨM CHẤT, KỸ NĂNG VÀ YÊU CẦU CỦA NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH 1. Các yêu cầu cơ bản của người dẫn chương trình truyền hình 1.1. Có thể nói, những yêu cầu cơ bản đối với một người dẫn chương trình truyền hình là những đòi hỏi tối thiểu để đảm bảo rằng, một người có khả năng thực hiện công việc dẫn chương trình truyền hình. Việc trở thành một người dẫn chương trình tài năng và được khán giả yêu thích, thì bản thân mỗi người phải được trang bị những kỹ năng và phẩm chất cao hơn nhiều. Những yêu cầu cơ bản chỉ là điều kiện cần cho hoạt động dẫn chương trình mà thôi. Những điều kiện cần, bao gồm những yêu cầu về ngoại hình, giọng nói, bản lĩnh sân khấu và nghệ thuật diễn cảm. Trong một số tài liệu nước ngoài chuyên đào tạo các chức danh cho công việc của truyền hình, như người dẫn tin tức(new anchor), người điều hành cuộc tọa đàm(talk show host), người điều hành trò chơi(game show host), các cơ sở đào tạo và các đài truyền hình luôn yêu cầu ở những người này phải đảm bảo những yếu tố như: Phải được đào tạo chuyên nghiệp về báo chí; khả năng xử lý tình huống tốt; biết xử lý ngữ âm, ngữ điệu thành thạo; có một vẻ bề ngoài lịch thiệp. Ngoài ra một số đài truyền hình khác sẽ yêu cầu đó là người có hình thức dễ mến, có sự hiểu biết rộng về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Thông thường, tại các hệ thống truyền hình của Anh hay Mỹ, những người dẫn chương trình tin tức hoặc tọa đàm sẽ phải bắt đầu làm việc trong một đài truyền hình ở vị trí của một phóng viên, sau khi có đủ thời gian và kinh nghiệm ở vị trí phóng viên, nếu đáp ứng được các yêu cầu trong công
  • 31. việc của người dẫn, thì anh ta mới bắt đầu được sắp xếp để thực hiện nhiệm vụ điều hành, dẫn dắt các chương trình. Như đã nói ở trên, khi nghiên cứu về đội ngũ người dẫn chương trình truyền hình ở Việt Nam, tác giả đưa ra bộ tiêu chí cơ bản về yêu cầu của người dẫn chương trình nhằm mục đích tổng kết những yêu cầu tối thiểu nhất để một người có thể đảm nhận công việc dẫn chương trình. Trên cơ sở đó mới nghiên cứu sâu hơn về khả năng đáp ứng công việc của họ; phân tích về thực trạng chất lượng của đội ngũ người dẫn chương trình. 1.2. Những yêu cầu cơ bản Ngoại hình Hình thức là yếu tố đầu tiên mà khán giả tiếp xúc với một người dẫn chương trình. Một người dẫn chương trình được đánh giá cao không nhất thiết phải là một người đẹp, nhưng nhất thiết phải là một người có duyên và ăn hình. Ngoại hình được tạo bởi các yếu tố về hình thể, gương mặt và trang phục, cũng như cách trang điểm. Nếu có bất kỳ một khiếm khuyết nào thuộc về ngoại hình của người dẫn, thì nó phải được bù lấp bằng những thế mạnh khác, nếu không, khán giả sẽ không thể nào kiên nhẫn để xem một chương trình với sự xuất hiện của một người dẫn vừa xấu xí vừa không có khả năng thu hút. Kết quả khảo sát của tác giả luận văn, cho thấy, đa phần những người dẫn chương trình không đề cao yếu tố ngoại hình, khi chỉ có 15,6% số người được hỏi chấm điểm 5, điểm cao nhất trong thang khảo sát. Dù vậy, điều đó cũng không khẳng định được là khán giả cũng nghĩ như họ. 62,5% số người dẫn chương trình được hỏi đã chấm điểm 4 cho yếu tố hình thức, tức là sự quan tâm của họ đối với yếu tố hình thức cũng không phải là nhỏ. Trên thực tế, rất nhiều chương trình ở VTV, VTC, HTV và các đài truyền hình khác trong cả nước vẫn phải chạy đua với nhau để mời những gương mặt
  • 32. diễn viên, người mẫu, hoa hậu tham gia dẫn chương trình. Bởi ai cũng hiểu là ngoại hình có sức thu hút rất lớn đối với khán giả. Chúng ta vẫn thấy hoa hậu Ngọc Khanh, á hậu Ngọc Oanh, á khôi Thu Hương.v.v…tham gia dẫn nhiều chương trình của các đài truyền hình. Trong các cuộc thi tìm kiếm gương mặt dẫn chương trình mới của một số đài truyền, yếu tố hình thức vẫn được coi trọng và là một trong những tiêu chí chấm điểm quan trọng của các nhà đài. Ở nhiều đài truyền hình tại Việt Nam hiện nay, người ta chưa thực sự coi trọng yếu tố hình thức của một người dẫn chương trình. Chỉ một số ít đài cấp quốc gia đã ban hành các quy định về ngoại hình cũng như trang phục, trang điểm của người dẫn chương trình. Còn hầu hết các đài địa phương chưa có quy định riêng về trang phục cho người dẫn, mà chủ yếu do người dẫn chương trình tự chuẩn bị dựa trên ý thức về mức độ phù hợp đối với mỗi chương trình khác nhau. Việc trang điểm cho người dẫn ở các đài truyền hình địa phương cũng như vậy, hầu như rất ít đài địa phương có được những nhân viên trang điểm cho người dẫn. Người dẫn chương trình phải tự mình trang điểm hoặc thuê những nhân viên trang điểm bên ngoài. Điều này khiến cho gương mặt của người dẫn đôi khi không phù hợp với thiết kế ánh sáng và góc quay.v.v… Giọng nói Có thể bạn không xinh đẹp, nhưng nếu là một người dẫn chương trình, bạn phải có giọng nói tốt. Trong một số tài liệu giảng dạy, người ta nói đến cụm từ giọng nói ăn míc, để ám chỉ một chất giọng tốt dễ nghe, truyền cảm, rõ, chuẩn, không bị đớt hay ngọng, không nói pha nhiều giọng địa phương... Yêu cầu về giọng nói đôi khi có tính quyết định cho việc một người dẫn có được lên hình hay không. Xét cho cùng, yêu cầu về giọng nói được tạo bởi 2 yếu tố, một là chất giọng(yếu tố phẩm chất) và hai là kỹ thuật đọc, nói(yếu tố kỹ năng). Chỉ khi nào đáp ứng đầy đủ hai yếu tố này, thì người dẫn mới được coi
  • 33. là đạt yêu cầu về giọng nói. Có nhiều người chất giọng rất tốt, nhưng khi đọc hay nói trước máy thu hình thì không đạt yêu cầu. Nguyên nhân là do người đó không đủ tự tin và kỹ thuật để đọc những đoạn văn bản dài. Luyện tập là giải pháp giúp bạn có được kỹ thuật đọc tốt. Tuy nhiên, nếu như không có chất giọng tốt, thì mọi sự cố gắng của bạn sẽ chỉ trở nên lố bịch mà thôi. Nó cũng giống như trường hợp học hát của những người mong muốn trở thành ca sĩ vậy. Những người không có tố chất về giọng sẽ không bao giờ được lựa chọn để vào khoa thanh nhạc. Học theo những người dẫn các chương trình truyền hình đi trước là cách đơn giản nhất để luyện kỹ thuật nói, đọc. Cần phải luyện hàng ngày để có thể đạt được yêu cầu về giọng nói cho việc dẫn chương trình. Kết quả khảo sát ở 224 người dẫn chương trình truyền hình trong cả nước, cho thấy, hơn 28% số người được hỏi chấm điểm cao nhất(5 điểm) cho yêu cầu về giọng nói, cao gần gấp đôi so với yêu cầu về ngoại hình. 62,5% số người chấm điểm 4. Bản lĩnh sân khấu Bản lĩnh sân khấu được tạo bởi nhiều yếu tố bao gồm cả sự tự tin, hiểu biết, khả năng chiếm lĩnh sân khấu, sự linh hoạt .v.v…Một người dẫn chương trình được coi là có bản lĩnh sân khấu, khi anh ta có được sự thể hiện nhẹ nhàng, tự nhiên và duyên dáng trên sân khấu hay trước camera. Đối với những người này, thông thường họ sở hữu đầy đủ tất cả các phẩm chất và kỹ năng cần thiết của một người thường xuất hiện trước công chúng. Một người dẫn chương trình có bản lĩnh sân khấu, thông thường là đã tạo dựng được một phong cách riêng biệt. Có đến 78% số người được hỏi đã khẳng định yêu cầu về bản lĩnh sân khâu là yếu tố quan trọng nhất trong 4 yếu tố được khảo sát. Để có thể đạt được các yêu cầu về bản lĩnh sân khấu, người dẫn chương trình ngoài những yêu cầu về ngoại hình cũng như giọng nói, thì còn phải biết làm chủ ngôn ngữ, làm chủ kịch bản, làm chủ cảm xúc và trên hết là làm chủ sân khấu. Nghệ thuật diễn cảm
  • 34. Nghệ thuật diễn cảm là cách biểu hiện thái độ, tình cảm của người dẫn trước công chúng. Một người dẫn chương trình được coi là đạt được yêu cầu này, khi anh ta được khán giả đánh giá là có duyên. Khác với nghệ thuật diễn xuất của diễn viên, nghệ thuật diễn cảm của người dẫn chương trình đòi hỏi anh ta phải biểu lộ thái độ, tình cảm một cách chân thành, đúng mực, không quá khuôn phép nhưng cũng không được ủy mị. Nghệ thuật diễn cảm phụ thuộc phần nhiều vào nội dung của chương trình mà người dẫn thể hiện. Với một chương trình giải trí với phong cách hài hước, trào lộng, thì người dẫn cũng phải tạo được một phong cách dí dỏm vui tươi. Trong khi đó, với một chương trình chính luận như bản tin thời sự, một người dẫn phải luôn biết kiềm chế cảm xúc của mình để thể hiện cho được sự khách quan, trung thực trong cách đưa tin. Tuy nhiên, nếu như đứng trước những sự kiện hoặc tin tức gây xúc động mạnh, thì người dẫn cần phải biết biểu lộ trạng huống cung bậc tình cảm của mình để khán giả có thể cảm nhận thấy ở đó sự chia sẻ. Nghệ thuật diễn cảm đòi hỏi người dẫn chương trình phải đáp ứng các yêu cầu về giọng nói, ngôn ngữ cơ thể, sự duyên dáng, và khả năng xử lý tình huống tốt. Trong khảo sát của tác giả luận văn, có hơn 53% số người được hỏi đã chấm điểm 5 cho yêu cầu về nghệ thuật diễn cảm của người dẫn chương trình, chỉ xếp thứ hai sau yêu cầu về bản lĩnh sân khấu. 2. Những phẩm chất của người dẫn chương trình truyền hình 2.1. Thế nào là phẩm chất của người dẫn chương trình truyền hình Khi nói đến phẩm chất tức là chúng ta đã có sự phân biệt rạch ròi giữa sự vật này với sự vật khác trong tương quan so sánh giữa chúng. Một hàng hóa được phân biệt phẩm chất dựa trên những yếu tố như chất lượng, độ bền, giá cả.v.v…Một người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh sẽ đòi hỏi những phẩm chất hoàn toàn khác với người hoạt động nghệ thuật. Như vậy có thể
  • 35. nói, phẩm chất nghĩa là những đặc trưng riêng của đối tượng giúp phân biệt đối tượng đó với đối tượng khác. Đối với một người dẫn chương trình truyền hình càng phải đòi hỏi những phẩm chất riêng. Những yếu tố như: sự bình tĩnh, tự tin; sáng tạo; nhanh nhẹn; hiểu biết; đạo đức; duyên dáng là những đặc trưng để có thể phân biệt một người dẫn chương trình giỏi. Tất nhiên để có được những phẩm chất đó, một người dẫn chương trình cần phải được rèn luyện và thử thách nhiều. Kết quả khảo sát của tác giả luận văn về mức độ quan trọng của các phẩm chất trên đối với người dẫn chương trình truyền hình cho thấy: được đánh giá cao nhất là phẩm chất bình tĩnh, thứ hai là hiểu biết, thứ ba là sáng tạo, thứ tư là nhanh nhẹn và đạo đức, thứ năm là duyên dáng. 2.2. Những phẩm chất cơ bản Bình tĩnh, tự tin Rất nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội đòi hỏi nhân viên phải có được phẩm chất này. Thế nhưng khi bạn đã là một người dẫn chương trình truyền hình thì yêu cầu này được đặt ra cao hơn gấp bội. Chúng ta hãy hình dung, một chương trình tin tức được phát sóng trực tiếp với những tin tức cập nhật hàng giờ, những rủi ro trong quá trình lên sóng là rất lớn. Nếu như một người dẫn chương trình không đảm bảo sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống phát sinh một cách hoàn hảo thì rất có thể sẽ khiến cho chương trình trở nên thật thảm hại. Sự bình tĩnh, tự tin của người dẫn có được, ngoài những khả năng thiên phú, thì phải trải qua sự nỗ lực tự rèn luyện không mệt mỏi. Bạn chỉ có thể tự tin khi mình có đầy đủ các phẩm chất và kỹ năng của một người dẫn chương trình giỏi, và bạn sẽ bình tĩnh khi biết rõ ràng tất cả mọi yếu tố trong quy trình
  • 36. làm việc, những khả năng, những rủi ro có thể xảy ra và bạn tính toán được khả năng xử lý nó như thế nào. Trong rất nhiều trường hợp, chúng ta nhận thấy những người dẫn chương trình tỏ ra lúng túng khi giới thiệu tin tức, đặc biệt là những bản tin được phát từ lúc sáng sớm. Có nhiều lý do biện hộ cho điều này, nhưng việc không chuẩn bị chu đáo kịch bản dẫn, hoặc chưa hiểu hết nội dung tin tức là những lý do chính lý giải cho sự lúng túng đó. Trong khảo sát mà tác giả luận văn thăm dò ở 224 người dẫn chương trình truyền hình trong cả nước, thì có tới 168 người cho điểm 5, điểm cao nhất trong thang điểm khảo sát, cho yếu tố bình tĩnh, tự tin của người dẫn, chiếm 75% số người được hỏi, 25% còn lại cho điểm 4. Rõ ràng, phẩm chất bình tĩnh, tự tin luôn được đánh giá cao bởi chính những người đang hàng ngày trực tiếp làm công việc dẫn các chương trình truyền hình. Khi không đủ tự tin thì người dẫn không thể làm chủ không gian trên sóng của mình và có nguy cơ, nhẹ nhất, thì khiến cho câu chuyện mà anh ta đang giới thiệu trở nên nhạt nhẽo, còn nặng hơn, có thể khiến cho chương trình bị vỡ vụn vì những phỏng vấn mơ hồ, lan man hoặc thậm chí bị khách mời phản ứng. Những yếu tố để tạo nên sự bình tĩnh tự tin của người dẫn chỉ có thể được hình thành bởi thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm, sự hiểu biết của cá nhân mỗi người. Một khi có đủ sự bình tĩnh, tự tin, thì một người dẫn chương trình truyền hình hoàn toàn có thể làm chủ chương trình của mình theo một kết cấu đã được định hình với nội dung xuyên suốt. Người dẫn hoàn toàn có thể thoát ly khỏi kịch bản để câu chuyện trở nên logic, mạch lạc và cuốn hút khán giả hơn, nhưng vẫn có thể đảm bảo rằng điều đó không đi chệch nội dung định hướng của chương trình. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự bình tĩnh, tự tin của một người dẫn chương trình truyền hình, ngoài yếu tố thuộc về cá nhân, chẳng hạn các vấn
  • 37. đề về kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, mức độ chuyên nghiệp của ê kíp, sự hứng thú của khách mời, thậm chí cả trang phục và cách trang điểm.v.v…Chính vì vậy, việc quán xuyến hầu như toàn bộ các công đoạn trong một quy trình sản xuất chương trình sẽ khiến cho người dẫn có thể chủ động nắm bắt các rủi ro và đề ra các giải pháp cho phù hợp. Tất nhiên phải hiểu quán xuyến ở đây không phải là làm thay việc, làm hộ, mà chỉ sự hiểu biết của người dẫn đối với các công việc có liên quan để kiểm sóat chúng. Trên thực tế, từ kết quả khảo sát mà tác giả luận văn tiến hành, thông qua công cụ phân tích kết quả khảo sát TV technique investigation system (Công cụ phân tích kết quả khảo sát do Nguyễn Tiến Hưng-APTECH Bách Khoa phát triển dựa trên bộ mã nguồn mở thuộc quản lý của WAMPSERVER ) cho thấy, tỷ lệ số người lựa chọn thang điểm cao nhất cho phẩm chất bình tĩnh, tự tin là cao nhất trong số 6 phẩm chất được khảo sát, chứng tỏ, yếu tố này rất được đề cao đối với mỗi người dẫn. Các phẩm chất khác có tỷ lệ lựa chọn thang điểm cao nhất(5 điểm) thấp hơn rất nhiều, chẳng hạn, chỉ có 56% số người được hỏi chọn phẩm chất sáng tạo; 34% chọn phẩm chất nhanh nhẹn; 65% chọn hiểu biết, kiến thức nền; 25% chọn duyên dáng; và 34% chọn đạo đức nghề nghiệp. Hiểu biết, kiến thức nền tảng Không có hiểu biết và một phông kiến thức nền tảng tốt thì bất kỳ ai cũng khó có thể hoàn thành một công việc cho dù nó đơn giản nhất. Phẩm chất hiểu biết, kiến thức nền tảng được đánh giá cao thứ hai chỉ sau phẩm chất bình tĩnh, tự tin trong kết quả khảo sát của tác giả luận văn. Sự hiểu biết và kiến thức nền tảng chỉ có thể được trang bị bằng nỗ lực cá nhân của mỗi người. Đó là cách anh ta đọc sách báo mỗi ngày, đó là cách anh ta nhìn các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội bằng con mắt biện chứng. Sự hiểu biết là nền tảng của sự tự tin, và nó cũng là bệ phóng cho sự sáng tạo
  • 38. ở mỗi con người. Một người ít hiểu biết và không có phông kiến thức tốt thì khó có thể đạt được sự sáng tạo trong nghề nghiệp. Điều đó đặc biệt đúng với người chịu trách nhiệm dẫn dắt, điều hành một chương trình truyền hình. Bạn hãy tưởng tượng, nếu bạn đang tiến hành một cuộc tọa đàm với Bộ trưởng Ngoại giao hay một chuyên gia về đối ngoại, nội dung của cuộc tọa đàm đó là một chủ đề về thế giới trong thế kỷ 21. Bạn sẽ làm gì, nói gì khi mà bạn không có được sự hiểu biết về rất nhiều lĩnh vực từ vi mô đến vĩ mô, từ văn hóa nghệ thuật đến quân sự, từ kinh tế đến ngoại giao và thậm chí cả địa lý…? Đó là lý do vì sao nhiều người dẫn chương trình tin tức hay tọa đàm ở các chương trình truyền hình nước ngoài, thường được chọn là những người trung niên trở lên, với một phông kiến thức dồi dào, một khả năng phân tích thấu đáo. Sự hiểu biết chỉ có thể đến khi anh ta đạt được sự trải nghiệm, có thể là trải nghiệm trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua sách vở, báo chí, bằng những khi tư liệu khổng lồ trong các thư viện. Sự hiểu biết sẽ không đến với những người chấp nhận (hoặc bằng lòng) với nấc thang nghề nghiệp. Vẫn có hơn 6% số người được hỏi chấm điểm 3, tức là điểm trung bình, cho phẩm chất hiểu biết của một người dẫn chương trình truyền hình, số còn lại chấm điểm 4 và 5. Nghĩa là vẫn còn một bộ phận nhỏ những người dẫn chương trình truyền hình chưa coi trọng yếu tố này. Nhưng may mắn thay đó lại là những người hầu như mới vào nghề và chưa được đào tạo báo chí một cách bài bản. Sáng tạo Công việc của một người dẫn chương trình truyền hình có thể coi là công việc sáng tạo. Điều đó thể hiện ở chỗ, anh ta phải xây dựng kịch bản, ít ra là kịch bản lời dẫn. Nó còn thể hiện ở chỗ anh ta phải là người có khả năng tái tạo và hình thành một câu chuyện có sức cuốn hút khán giả. Nếu không có khả năng sáng tạo, thì chương trình của anh ta sẽ vô cùng nhợt nhạt và khó có thể lôi kéo khán giả ngồi trước máy thu hình.
  • 39. Sáng tạo của người dẫn chương trình truyền hình thể hiện ở nội dung kịch bản, câu hỏi mà họ đưa ra, trong cách hành ngôn, trong trang phục, trong. Đỉnh cao nhất, sự sáng tạo phải được toát ra từ mọi cử chỉ, hành vi, thái độ, phản ứng, diện mạo của người dẫn. Điều này rất quan trọng. Vì chỉ có một người đầy sáng tạo mới có thể khiến cho khách mời, khán giả cùng hòa nhịp và bị lôi cuốn vào những suy nghĩ tâm tư, với những đam mê của mình. Trong khảo sát của tác giả luận văn, yếu tố sáng tạo được đánh giá cao thứ ba chỉ sau phẩm chất bình tĩnh tự tin và hiểu biết. Có 56% số người được hỏi, tương đương 126 người chấm điểm 5 và 37% tương đương 84 người chấm điểm 4 cho yếu tố này. Để có được phẩm chất sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, người dẫn chương trình phải đạt được một trình độ cao. Nghĩa là anh ta đã phải trải qua và trả giá cho những sai lầm(có thể chấp nhận được) để rồi hoàn thiện mình và rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá cho hoạt động dẫn chương trình. Chính những bài học đó tạo nên phẩm chất sáng tạo trong một người dẫn. Thật khó khi một người dẫn chương trình mới vào nghề, cho dù anh ta có tư chất sáng tạo, đạt được sự sáng tạo trong công việc. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: sáng tạo nghĩa là tìm thấy và làm nên cái mới. Từ đó suy ra, một người chưa từng biết đến cái cũ thì khó mà tạo nên cái mới. “Sự sáng tạo riêng của mỗi người dẫn chương trình khi được công chúng chấp nhận và yêu mến, đó chính là cá tính riêng, rõ ràng, mới mẻ của người dẫn chương trình.”[42] Sự sáng tạo đạt đến trình độcao đãtạo nên cátính của người dẫn. Một tư duy hẹp hòi, bảo thủ, một nền tảng tri thức ít ỏi là những kẻ thù của sáng tạo. Một người dẫn tốt nhất không bao giờ để cho những điều đó làm hạn chế đi khả năng sáng tạo. Nhanh nhẹn
  • 40. Yếu tố Nhanh nhẹn, và đạo đức nghề nghiệp cùng được 34% số người được hỏi cho thang điểm 5. Trong một chương trình truyền hình, đặc biệt khi đó là khi thực hiện truyền hình trực tiếp, sự nhanh nhạy của người dẫn đôi khi có thể cứu cả một chương trình khỏi sự đổ vỡ khó tránh. Luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Phong Lan, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn năm 2006 ghi nhận một ví dụ về việc xử lý tình huống rất nhanh chóng của người dẫn chương trình Người xây tổ ấm Kim Ngân. Đó là chương trình giao lưu(đoạt giải Vàng Liên hoan Truyền hình toàn quốc năm 2004), lúc giao lưu, người khách mà Kim Ngân định đưa lên đầu, hứng chí đã trót uống rượu và say mèm. Kim Ngân đã nhanh chóng đảo kịch bản, đưa anh ta xuống cuối cùng. Trong lúc Kim Ngân trò chuyện với 2 nhân vật khác thì các trợ lý lo đi giải rượu cho anh ta.[17, tr.105] Sự nhanh nhẹn luôn đi cùng với sự sáng tạo. Chỉ có sáng tạo mới có thể đưa ra những giải pháp nhanh chóng nhất, bất ngờ nhất. Và, sự nhanh nhẹn cũng phải xuất phát từ sự hiểu biết. Nếu một người nhanh nhẹn mà không có hiểu biết chắc chắn về những quyết định của mình, thì rất có thể khiến cho chương trình mà anh ta dẫn dắt đi vào ngõ cụt. Những thể loại chương trình có yêu cầu cao về sự nhanh nhẹn của người dẫn là các bản tin phát sóng trực tiếp, các chương trình tọa đàm và trò chơi. Trong các chương trình này, người dẫn luôn phải đón đầu các diễn biến của mạch câu chuyện hoặc các tình huống của cuộc chơi để điều khiển chúng đi theo đúng mạch kịch bản. Trong trường hợp gặp phải những sự cố như ví dụ ở trên, người dẫn không có sự lựa chọn nào khác là phải quyền biến. Như người lính đã ra trận, anh ta có toàn quyền trong trận đánh, chỉ duy nhất một điều, phần thắng trong cuộc chiến đó phải thuộc về anh ta. Phương châm Dĩ bất biến ứng vạn biến tỏ ra rất có hiệu
  • 41. quả đối với những chương trình thuyền hình trực tiếp, lúc này, vai trò của người dẫn cực kỳ quan trọng. Điều gì có thể ảnh hưởng đến phẩm chất nhanh nhẹn của người dẫn ? Đó chỉ có thể là sự thụ động. Nếu như một người dẫn lâm vào thế thụ động(không phải bị động) thì chắc đến 80% chương trình của anh ta không thể thu hút được khán giả. Đạo đức nghề nghiệp Thật bất ngờ khi kết quả khảo sát của tác giả luận văn về phẩm chất này, cho thấy, chỉ có 34% số người dẫn chương trình được hỏi đề cao yếu tố đạo đức nghề nghiệp. Thậm chí có đến 9% số người được hỏi đã chấm điểm 2 cho yếu tố đạo đức nghề nghiệp và 12% chấm điểm 3. Nếu như nghĩ rằng phẩm chất đạo đức là không quan trọng thì rất có thể những chương trình truyền hình sẽ ngày càng xa rời ý nghĩa nhân văn, và đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ chỉ bắt gặp các chương trình giải trí hay thông tin thuần túy, mà không còn thấy bóng dáng của tính định hướng, hay tính nhân văn trong các tác phẩm truyền hình nữa. Đạo đức nghề nghiệp của một người dẫn chương trình có những biểu hiện hoàn toàn khác với đạo đức nhà báo nói chung. Với tư cách là người tiếp cận trực tiếp với quần chúng nhân dân, với đời sống xã hội, một phóng viên hay một nhà báo cần thể hiện đạo đức của mình thông qua sự chân thật, khách quan, sự chia sẻ thông tin. Đó có thể là sự kêu gọi ủng hộ một người nghèo cần tiền để mổ tim, hay là sự thể hiện quan điểm phản đối các hành động khủng bố. Nếu như những quan điểm đạo đức đó được thể hiện trong những tin bài của phóng viên, khi truyền về đài truyền hình, nó không nhận được sự cảm thông từ người dẫn chương trình(với nền tảng đạo đức được cho là không quan trọng) thì anh ta(người dẫn) sẽ không thể nào truyền tải được những nội dung tin tức mà người phóng viên kia muốn gửi gắm. Hay nói cách khác, khả